Monday, January 1, 2018

Mayan Star Signature




Dreamspell  
   Mayan Tzolkin   
Haab
Day tone.  11 is Spectral, Dissolve Liberation-Release.  Tone of the day - - Tone 11 Spectral, creative power to Dissolve Liberation,action of Release.Daily meditation- Action dissolves service. - -
Haab day of the month 1 (0-19)(Spectral)  White Wizard is the Seal of the Day, Destiny. Tone 11  Spectral - - White Wizard (IX) - Enchants and emphasizes Timelessness. - - The seal of the day is the basis of life destiny, with power of the solar tribe.
Kin 154   of 260 day cycle (20 wavespells of 13 tones). - -  13 Moon Calendar: moon:13 day:15    Planetary Genesis index: Solar Asteroid Belt
Spectral
Wizard
4 of 1 to 13Lamat, 8 of 1 to 20
4
Lamat
Haab month Xul (5 of 0-18)
1
Xul

Long Count 0.0.5.11.8 . Plus 1 cycle of 13 baktuns have elapsed since August 11, -3114
13 Moon Calendar moon:13 day:15
Enter Gregorian Date using numbers:
Month
Day
Year 10000 to -10000
  
all dreamspell long count haab & tzolkin 
wheels center page background image controls on top
Choose date and options above, then click "Reading" button.


 Dreamspell Calculator
http://www.starroot.com/cgi/daycalc.pl
http://www.astrodreamadvisor.com/free_mayan_readings.html#




Dissolved in the stroma of a chloroplast, the plant cell structure responsible for photosynthesis, is the enzyme RuBisCO, which makes up half of the soluble protein of most leaves.

RuBisCO does a very difficult biochemical job. It kick-starts the first stage of the Calvin cycle, taking carbon dioxide dissolved in the leaf water and placing it into sugar molecules to make them bigger. That chemical reaction is called carboxylation – and the overall process is called carbon fixation.
How the enzyme got its name





An enzyme is named in two parts. The first part is its substrate (the chemical it works on); the second part is its action. RuBisCO’s substrate is the high-energy five-carbon sugar RuBP, or ribulose bisphosphate. Its primary action is carboxylation, but at most temperatures, RuBisCO also oxidises RuBP – which is why the final two words of the name are ‘carboxylase oxidase’.

How fast an enzyme works depends on three things: temperature, substrate and concentration.

Enzyme reactions speed up as temperature increases – up to an optimum point.

The optimum point is the temperature at which the enzyme’s active site is best at binding to its substrate. Human enzymes, for instance, have an optimum of 37ºC – our body temperature. Plant enzymes have varying optimums, to match the varying climates the plants grow in. At higher temperatures than its optimum, RuBisCO starts to be better at oxidation than carboxylation. When the rate of carboxylation slows down, so does photosynthesis.




The more substrate there is, the more likely the enzyme’s active site is to be full, so the rate of reaction is faster.

RuBisCO’s substrate is RuBP, which is regenerated as the Calvin cycle turns (see diagram). But it also requires CO2 for the process to start. As the level of CO2 dissolved in the water in the leaf drops, the active site is less likely to be full.

The higher the enzyme concentration, the faster the reaction.

Leaves contain a huge amount of RuBisCO to increase the rate of this vital reaction.
Oxidation vs reduction





Oxidation occurs when chemicals have oxygen added to them or hydrogen taken away. The level of oxidation is indicated numerically (positive numbers for oxidised atoms, negative for reduced ones).

Carbon dioxide (CO2) consists of a carbon atom double-bonded to two oxygen atoms. The carbon is highly oxidised, with an oxidation state of +4.

Methane (CH4) is a carbon atom with four hydrogen atoms single-bonded to it. The carbon is highly reduced, with an oxidation state of –4.

Glucose (C6H12O6) is a carbohydrate. For every individual carbon atom, there is one oxygen atom and two hydrogen atoms. The oxidation state of the carbons in glucose comes out as zero.


Glycerate phosphate (GP), which is produced during a turn of the Calvin cycle, is also a carbohydrate. It too has an average carbon atom oxidation of zero.



 
During photosynthesis, the oxidation state of carbon atoms falls from +4 to zero. This requires energy provided by ATP and reduced NADP from the light-dependent reactions. This reduction takes place in just one step: the carboxylation reaction catalysed by RuBisCO. The energy found in the ATP and reduced NADP is used in subsequent reactions to rearrange GP into glucose and RuBP.
When it’s hot

As temperatures rise over approximately 35ºC, photosynthesis slows down and becomes far less efficient, with a higher rate of oxidation. During the first carboxylation, RuBisCO takes a carbon dioxide molecule but cannot hold on to it.

Many tropical plants such as maize and sugar cane have an extra biochemical pathway bolted on to the Calvin cycle. Their process is called C4 photosynthesis.

Plants that use C4 photosynthesis can concentrate the carbon dioxide locally – with less competition from oxygen – so carbon is fixed faster. If this fixes carbon faster, why haven’t all plants evolved to use C4? The answer is energy: C4 photosynthesis requires more ATP – approximately 30 ATP, compared with 18 ATP for lower-temperature photosynthesis (known as C3) – so at lower temperatures, C4 photosynthesis has no advantage.



https://bigpictureeducation.com/great-rubisco-and-its-amazing-carbon-fixation
...
 
Replica of Yayoi storehouse


Việt quốc (Phồn thể: 越國; giản thể: 越国), còn gọi Ư Việt (於越), là một chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu và Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Lãnh thổ quốc gia này tương ứng hiện tại ở vùng đất phía nam Trường Giang, ven biển Chiết Giang, Trung Quốc.

Quốc gia này vì vị trí rất xa Trung Nguyên và thường không được ghi chép nổi bật, chỉ được biết đến khi Việt vương Câu Tiễn đánh bại Ngô Phù Sai, cùng các truyền thuyết về nàng Tây Thi. Vào thời Chiến Quốc, quốc gia này bị nước Sở tiêu diệt. 





Các quốc quân nước Việt thuộc dòng dõi thế nào, vẫn còn nhiều tranh cãi, có hai thuyết là hậu duệ Quốc vương nước Sở, thứ là dòng dõi Hạ Vũ, được phong ở đất Cối Kê để lo việc phụng thờ. Nước này nổi tiếng về chất lượng gia công đồ kim khí, đặc biệt là các thanh kiếm của họ. Kinh đô Việt đặt ở Cối Kê, nay thuộc huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang.

Do vị trí quá xa Trung Nguyên nên tiểu quốc Việt không thu hút nhiều sự quan tâm của nhà Chu và các nước chư hầu lớn. Chỉ đến khi Việt Vương Câu Tiễn tiêu diệt nước Ngô, vốn đã đánh phá nước Sở hùng mạnh trước đó, triều Chu phải công nhận địa vị bá chủ phía nam của nước Việt. Thời kỳ này đánh dấu sự thịnh vượng của nước Việt khi quốc gia này nhiều năm nắm giữ địa vị bá chủ trung nguyên với sự công nhận tuyệt đối của triều đình nhà Chu và các chư hầu.

Đầu thời kỳ chiến quốc, thế nước Việt vẫn còn rất mạnh. Qua các đời vua tiếp theo sau Câu Tiễn, nước Việt tiếp tục tiến hành tiêu diệt và thâu tóm các nước chư hầu nhỏ khác khiến lãnh thổ tiếp tục mở rộng lên phía bắc. Bấy giờ, lãnh thổ của nước Việt đã rất rộng, giáp ranh hai nước Sơn Đông khác là Lỗ và Tề. Trước khi có sự trỗi dậy của nước Tần, Việt cùng với Sở và Ngụy là một trong ba nước mạnh nhất thời điểm lúc đó. Cũng trong thời gian này mối quan hệ giữa hai nước Tề và Việt không mấy gì là tốt đẹp.




 
Tuy nhiên, những tranh chấp trong nội bộ dòng tộc đã khiến nước Việt suy yếu, kèm theo đó là những lần bại trận trước nước Sở trong những lần tranh chấp lãnh thổ biên giới đã khiến nước Việt mất dần địa vị bá chủ.

Vào năm 334 TCN, nước Sở mở một cuộc tấn công bất ngờ vào lãnh thổ nước Việt và đoạt lấy vùng Giang Tô, kinh đô cũ của nước Ngô. Cuộc tấn công của nước Sở đã cắt đôi lãnh thổ nước Việt, bấy giờ phần phía bắc của nước Việt đang giáp với nước Tề. 


Sau nhiều năm kháng cự, cuối cùng nước Việt cũng bị nước Sở tiêu diệt, Việt vương Vô Cương thất trận và bị giết. Lãnh thổ nước Việt bị nước Sở và nước Tề sát nhập. Con thứ hai của Vô Cương là Minh Di được vua Sở cho cai quản vùng đất Ngô Thành (nay ở huyện Ngô Hưng tỉnh Chiết Giang), nằm ở phía nam Âu Dương Đình, được đặt tên như vậy bởi vì nó được xây dựng ở phía nam và là phía dương (mặt trời) của núi Âu Dương, vì thế ông được đặt danh hiệu là Âu Dương Đình Hầu.

Năm 223 TCN, tướng nước Tần là Vương Tiễn sau khi diệt nước Sở đã tiến vào vùng đất Việt. Các thủ lĩnh người Việt ở đây (là hậu duệ của Câu Tiễn) đều quy phục. Vương Tiễn bèn lấy đất Việt lập quận Cối Kê. Con cháu họ tiếp tục giữ họ Âu, họ Âu Dương hay họ Âu Hầu để tưởng nhớ chức tước ngày xưa của tổ tiên.

 

https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_(n%C6%B0%E1%BB%9Bc)
...



The word "ohaguro" was a Japanese aristocratic term. There is an alternate reading for ohaguro, 鉄漿 kane (literally 'iron drink'). At the old Imperial palace in Kyoto, it was called fushimizu (五倍子水). Among the civilians, such words as kanetsuke (鉄漿付け), tsukegane (つけがね) and hagurome (歯黒め) were used.

The Old Book of Tang (舊唐書), one of the Twenty-Four Histories, stated that the Japanese envoy disliked his country's name Woguo (Chinese) (倭國), and changed it to Nippon (Japanese; Mandarin Chinese: Rìběn, Toisan Cantonese: Ngìp Bāwn) (日本), or "Origin of the Sun".

...

...
Ohaguro, according to Wikipedia,  is a custom of dyeing one’s teeth black and an aristocratic term. It was practised since prehistoric times (traces of blackened teeth can be seen in the buried bones and haniwa from the Kofun period) and remained most popular in Japan until the Meiji era, as well as in the southeastern parts of China and Southeast Asia. Dyeing was mainly done by married women, though occasionally men did it as well. It was also beneficial, as it prevented tooth decay, in a similar fashion to modern dental sealants.

Ohaguro or teeth blackening custom (Photo: Japanuptown)

***

Here was a recorded argument discussing the “barbarism” of the dress and customary practices of different local peoples from “The Intrigues of the Warring States” Han Dynasty scholar Liu Xiang’s compilation of stories, speeches and historical records:





Gongzi Cheng: “I have heard the Middle Kingdoms described as the home of all wisdom and learning, etc…. But now the king would discard all this and wear the habit of foreign regions. Let him think carefully, for he is changing the teachings of our ancients, turning from the ways of former times, going counter to the desires of his people, offending scholars, and ceasing to be part of the Middle Kingdoms.”

Wuling: “Clothes exist to be useful and manners respond to conditions. Therefore the sage was guided by what was right and proper for each locality and encouraged behavior related to its conditions, etc… 


To crop the hair, decorate the body, rub pigment into arms and fasten garments on the left side are the ways of the Ba and Yue (southern barbarians). In the country of Daiwu* the habit is to blacken teeth, scar cheeks, and wear caps of sheepskin stitched crudely with an awl. 

Their costumes and customs differ but each derives benefit from his own… From Changshan to Dai and Shangdang, we border Yan and the Eastern Hu in the east, and Loufan, Qin, and Han in the west. Along this line we have not a single mounted archer. 

I change our garments and mount archers to guard our borders with Yan, the Eastern Hu, Loufan, Qin, and Han…. With men dressed as mounted archers I can today prepare for Shangdang nearby and exact vengeance upon Zhangshan at a distance….”

Gongzi Cheng: “Such has been my stupidity that I have not even conceived of these arguments, your majesty. I had instead the temerity to mouth platitudes. But now that I too wish to carry out the hopes of Kings Jian and Xiang, the ambitions of our ancestral rulers, what choice have I but to make obeisance and obey your order?”


He was given the Hu garments. — Source of excerpt

Note*Daiwu is in Guangdong, Southeast China.

In the Shan Hai Jing, there is also a description of a “black teeth country” (lit. 黒歯国) (Source: Wikipedia).

Thus, the practice of blackened teeth was well known in China and right down to modern times today, teeth blackening similar to the Japanese ohaguro practice can be seen among many minority groups in Southeast Asia. The practice is dwindling among the younger women, but remains prevalent in older women among certain of the hill tribes.




 

Teeth blackening was widely practised especially by various ethnic tribes in Southeast Asia. In 1938, a French survey found that 80% of Vietnamese in the countryside blackened their teeth. 

The Vietnamese women blackened their teeth through a tooth lacquering process (NOT by chewing betelnuts) and undergoing the ritual of having one’s teeth blackened indicated a girl was “grown up and ready for marriage.”(Source: Tooth Blackening: The Forgotten Tradition)

Teeth blackening has been recorded to be practised by these peoples:

In Yunnan: Hmong people, Lahu people, Yao people

In Vietnam: ethnic Vietnamese, Dao Tien people, Lu people, Black Hmong people, Nung people

In Laos: Hani people, Katu people, Phu noi people

In Thailand: Akha, Lisu people

In the Pacific Islands: the Philippines: Mariana Islands, Palau, Yap

Vietnamese woman with blackened teeth (Source: Wikipedia)

The process

The main ingredient was a dark-brown solution of ferric acetate called kanemizu (かねみず), made by dissolving iron filings in vinegar. When the solution was combined with vegetable tannins from sources such as gallnut powder or tea powder, it would turn black and become non-water soluble, in the same manner that iron gall ink is produced. Coating the teeth with this liquid helped to prevent tooth decay and enamel decay. The dye had to be applied once a day or once every few days.

As a convenient prescription, a fine powder of gallnut powder, sulfuric acid, and oyster shell could also be applied to the teeth, though this never really caught on.

On February 5, 1870, the government outlawed the practice of ohaguro, so today, the only places where ohaguro can still be seen in Japan is in plays, hanamachi (geisha quarters), some matsuri, and movies. In theatrical plays, ink used to be mixed with turpentine was used, though these days, ink is mixed with tooth wax instead.

***

Interesting Japanese custom: Ohaguro or black teeth writes on the historical practice of ohaguro through the ages:

Yellow teeth are a real turn off, but black teeth are a major turn on, for the ancient Japanese people at least. Ohaguro simple means to blacken the teeth.

It is an old Japanese custom that was so popular centuries ago in Japan, and up to the Meiji period at the end of the 19th century. If you’re lucky enough, you could probably catch a glimpse of this black teeth phenomenon in Kyoto nowadays by Geisha ladies. In the olden days, most married Japanese women, some aristocrats, samurai and even those people from the imperial would blacken their teeth as some sort of a symbol of stature and pedigree. This is because in Japan, black color and things were considered especially beautiful.

The History of Black Teeth Make-up or Ohaguro

According to archeological researches done on ancient tombs and burial mounds somewhere in Japan, the custom of Ohaguro or blackening the teeth had existed since the prehistorical ages. Dictations of it were even included somewhere in the famous novel, Tales of Genji or Genji Monogatari and Tsutsumi Chuunagon Monogatari that were written in the Heian period and within the ukiyoe art of the Edo period.

The term Ohaguro itself is a word used by the Japanese aristocrats. In Japan, it existed from ancient times, and it was seen among the civilians up until the end of the Meiji period.perhaps you’ll wonder why would the wife of the samurai would dyed their teeth black? Other than being thought as beautiful, other guesses include that they want to maintain dental health and protecting ugly tooth as such. Besides, a woman who has black teeth is obviously a married woman and no man should try to woe her.

Chronological Facts of Ohaguro:-
Heian period

(References to ohaguro exist in the Genji Monogatari and Tsutsumi Chuunagon Monogatari) Ohaguro was practiced by aristocratic men and women who have reached puberty and celebrated their genpuku or mogi, Tairas and other samurai, members of the imperial family who had finished their hakamaza, a ceremony where a child is fitted with a hakama and pages working at large temples. At this period, they even shaved off their eyebrow and painted their eyebrow instead. This tradition continues in the imperial family until the end of Edo period.

Muromachi period

Ohaguro was used among adults and also during political marriages, when a female child of the military commanders had their teeth painted black as a symbol of the coming of age. Even a commander who had been struck in the head and had distorted appearance would wear average womens’ makeup and would blacken their teeth to avoid appearing ugly.

Edo period

Only the men of the imperial family and male aristocrats still practiced Ohaguro, but there are still practices of blackening the teeth among the common married women, unmarried women who are already pass their prime time, which is 18 years old as well as Geisha and prostitutes. For people who live outside main cities, this practice still existed during special celebration such as matsuri, wedding ceremonies and funerals.

Meiji Period

On February 5, 1870, the government banned the practice of ohaguro, and the process gradually became obsolete.

Ohaguro was closely related to Japanese ghost (youkai) stories and urban legend. One famous story was Ohaguro Bettari. Ohaguro bettari beholds the image of a Japanese lady in a bridal kimono with blackened teeth or ohaguro but she also appeared with no other facial features or remarks, meaning no nose or eyes but a blank face with just black teeth shown, eeriely. 


You can say it is a like some sort of a typical ancient Asian female ghosts. It was also said that Ohaguro bettari haunts temple grounds and shrines during nighttime and distracting men with their seen beauty from behind but scares them away with their upfront features. But I guess, who would stop to have a second look at a female lady in bridal suits walking alone in a quiet and dark temple grounds at night right?!
:::
“The behavior of the Imperial family was also critical to adoption of western cultural practices. Before 1873 most Japanese women of a high social position would shave their eyebrows and blacken their teeth to appear beautiful. 


But on March 3rd 1873 the Empress appeared in public wearing her own eyebrows and with unblackened teeth. Following that day most women in Tokyo and around Japan stopped shaving their eyebrows and blackening their teeth.” “Ohaguro are the teeth dyed in black, which was the custom practiced in olden times, mainly by women. 

The black dye is an oxidized mixture of iron shavings melted in vinegar and powdered gallnuts. Around the ninth century, tooth blackening came into fashion among Heian court ladies and some men. In the Muromachi period (1336-1568), it became popular even among commoners and was done from the age of puberty. In the Edo period (1603-1868), married women were required to dye their teeth black. This custom is no longer practiced.”

***

From Japanese Teeth Blackening (Ohaguro) by Lawrence Lee:
Japanese referred their process of teeth blackening as Ohaguro. The Ohaguro trend began under the Heian Era (794 – 1192). 


The word Ohaguro is derived from the Japanese word, ‘kuro’ which “expresses darkness after the sunsets” (Fukagawa, 2008).In ancient times, night was considered as the “time when evil spirits rampant. Black was ill-omened and hated as a color which means to be wrong” (Fukagawa, 2008). However, the Japanese, whom practice Buddhism, referred black as an unchanging color for which cannot be dyed with another. “Color has many symbolic properties and is often adapted in many societies around the world” (“The black teeth,” 2010).

The reason why one chooses a particular color have their own reason and meaning behind it. This is why Buddhism had a great influence and impact on choosing the color black because they believed it was a static color that visually symbolizes constant strength and dignity.

What are Ohaguro’s made out of and how are they used? The Japanese have a unique way of handling and making the ingredients of Ohaguro. They have a large round container called ‘mimidarai’. Sitting on top of the container is a thin tray called ‘watashigane’. 


On top of the tray is the ‘kanewan’ which is the bowl that the dye is mixed. A feathered tip brush was used to paint the teeth, the brush stick is made of bamboo. A porcelain bowl was used as well as a small box of fushi powder. The fushi powder is made from the “gallnuts of the Japanese sumac tree…, and kanemizu, which was made by fermenting iron filing in an acidic mixture of tea, vinegar and rice wine” (“Ohaguro – beautiful,” 2011).  

Having all these ingredients mixed together, should produce a black dye which could then be applied to the teeth.  Unfortunately doing this process will not make teeth blackening stay permanent.  They would quickly fade and the whole process would have to be done again.  It is a labor intensive work to start everything from scratch. Not only that, but also the dye emits a foul smell.  

The dye had to be applied once a day or once every few days depending on the color left intact to the teeth.  According to the Japan times from the Japan Society of Aesthetic Dentistry, they believed the reason why they do teeth blackening was because “Ohaguro had the effect of protecting teeth from cavities and periodontitis” (Fukue, 2010). They also believed that this “technique could potentially prolong lives” (Davis, 2011).

In the Heian Era (794 – 1192) Ohaguro became popular among males especially court nobles and commanders. Samurais also use Ohaguro as a custom to show proof of loyalty and that a samurai does not serve two masters within a lifetime. The custom is said to have ended around the Muromati Era (1558 – 1572). 


During the Edo Era (1603 – 1867), the practice was followed by women. Women blacken their teeth to enhance their appearance when they are ready to find a husband. At that time blackened teeth was a trend and was thought that it made the women look beautiful. It signified unity and fidelity. They possibly believed that teeth were a visible part of the skeleton, which as a symbol of death, was unclean. 

It was also thought to believe in the Buddhist idea that white teeth reveal the animal nature of men and women and that the civilized person should conceal them, thus using teeth blackening. Because of the use of Ohaguro, it was quickly spread all over the country and became the symbol of married women. 

Ohaguro was also used for unmarried women who already passed their prime time which is eighteen years of age, as well as Geisha and prostitutes. “The color of teeth reflects the social conceptions of beauty, social status and age” (Fukagawa, 2008). On February 5th of 1870, the government banned the practice of Ohaguro, and the tradition was ceased.

There is not much of a difference when compared with Japanese and modern American ideal dentistry. Americans however, do not practice teeth blackening. They believed that exposing the color of the enamel and dentin part of the tooth is what makes us feel natural. The anatomical features of both cultures of the Japanese and Americans are the same. 


The Japanese didn’t make any modifications in its structure and function of their teeth. Judging the lack of dentistry provided in ancient Japan, they probably left their teeth the way it was grown. That means tooth alignment could be deformed. Although they lack dental practices, one painting from ancient Japan indicated practices of full and partial dentures. 

Americans today use full and partial dentures too however, if there is a slight deformation in tooth alignment, it can be guided back to its natural form with the help of braces. Japanese practices of teeth blackening are strict compared to Americans. Japanese teeth blackening help judge a person by rank, age, and marital status.

Americans do not have such things. They leave their teeth natural as others would do the same. Despite the fact that Americans expose the color of the enamel and dentin part of the tooth, there is a trend now where bleach would bring up the whiteness of their teeth. 


They believe that bleaching their teeth would bring a whiter, brighter smile. Every billboard and advertisements you see in magazines and streets today deal with people smiling, exposing their white teeth. It attracts people, basically telling them that they can look younger and beautiful if they bleach their teeth.

In every part of the culture, color plays a huge role. There is a reason why one would choose a particular color as opposed to the rest because they have their own reason and meaning behind it. When one finds doing something to their teeth can make them look beautiful, others would do it until everyone within the region does it as a practice. We can now tell that although Japanese practices of Ohaguro teeth blackening are different from the American teeth whitening by appearance, they all have one same goal; making themselves look beautiful.

***

Jomon and Ainu practices

Slightly different from the practised teeth blackening, according to Kirsten Refsing writing in Early European Writings on Ainu Culture: Travelogues and Descriptions (Volume 2), p. 16,  Ainu women painted around their lips a dark blue black color as an indication of rank.

The early Jomon peoples have so far not been found to have practised teeth blackening, though the custom of teeth ablation has been widely recorded for the Jomon period…parallel to practices by nearby temporal neighbours in southern Cambodia and northeast Thailand, suggesting a unique cultural behaviour for the region (“Cultural Modification of the Dentition in Cambodia“, K.M. Domett et al.).

***

Further reading:

Zumbroich T. J. (2009), The ethnobotany of teeth blackening in Southeast Asia

Zumbroich T. J. (2011), To strengthen the teeth and harden the gums – Teeth blackening as medical practice in Asia, Micronesia and Melanesia

Yamada Norio’s “A trip of Tohoku Ghost Stories”, has a story set in Fukushima prefecture called Ohaguro bettari (お歯黒べったり)

Tooth Blackening – The Forgotten Tradition by Lanh Nyuyen

The Blackened Teeth of Traditional Vietnamese Tribes

Asia is a land full of weird and wonderful customs and rituals. Throughout the continent there are thousands of different traditions that remain alive and these customs often stem from religious beliefs that have been faithfully upheld for thousands of years.

Trekking through the gentle mountains of Northern Thailand, Laos and Vietnam is a great way to experience these traditions first hand.

A strangely interesting custom that is often misunderstood is the Vietnamese ritual of tooth blackening or tooth lacquering. Tooth blackening is not totally uncommon for Vietnamese people living traditional lives. Many tour guides still tell tourists the blackening is the result of chewing betel nut which isn’t entirely true.

It is a mild stimulant that comes in the form of a tiny parcel made up of betel nut, the fruit of an Areca tree and lime paste wrapped in a leaf of the betel pepper vine. It is chewed in a similar way to tobacco and this stains the teeth.

It is actually quite easy to spot the difference between blackened teeth and those stained by betel nut. The betel nut stains the teeth a dark red/brown color and the constant chewing and spitting is also a clear sign.

Betel nut can be found all over Asia, predominantly in areas occupied by hill tribes, but the more abrasive procedure of tooth lacquering is a tradition that only really remains in Vietnam.

Mrs. Nguyen Thi Pham, a 67 year old Hanoian, dressed in a loose silk blouse, black satin trousers, a jade bracelet and necklace described the ritual blackening of her teeth when she was 17. Pham waves her slender gold-ringed fingers as she described the party-like atmosphere of the ceremony…

Her grandmother blackened her teeth as the rest of her family looked on joking and making joyful comments to her as her mouth was being “painted.” There needed to be three applications (every other day for a week), because natural saliva washed off the original application of chemicals. For that period of time she could not eat solids and could drink only through a straw.

The ritual certified that she was “grown up and ready for marriage.” Although it was not a painful process for Pham, I have spoken to other women who recall that their mouths swelled up or that their gums burned and stung for days. The procedure can take place sometime after the age of ten when the child has all her permanent teeth, but is usually done after menarche.

The chemical ingredients used to blacken the teeth can take several forms.

In Vietnam it is common to use red sticklac, a resin obtained from secretions of a tiny aphid-like insect that sucks the sap of a host tree, as a dye.

The resin is diluted with lemon juice or rice alcohol and stored in the dark for a few days. It’s then applied with pressure to all the teeth. An application of iron (mainly from iron nails) or copper from green or black alum and tannin from Chinese gall reacts with solution to give a blue-black insoluble coating.

In other areas of Southeast Asia coconut husk is burned to form a black sticky char that is then combined with nail filings and adhered to the tooth surface until the dye “takes.”

The traditional method once used by the Japanese was to make a mixture by soaking iron fillings in tea or sake. This liquid then turns black upon oxidation of the iron. Spices like cinnamon, cloves and anise were often added to the resin to reduce the harsh chemical taste of the dye.

As with most Asian traditions, there are long standing cultural reasons for tooth blackening.

It was believed that only savages, wild animals and demons had long white teeth. The filing and blackening of the teeth was also a popular procedure and assurance that one would not be mistaken for an evil spirit.

In Japan tooth blackening was known as Ohagura. It was believed to enhance sex appeal in addition to maintaining healthy teeth. Linking tooth blackening to a prolonged set of teeth is not just a belief; studies have shown that those with blackened teeth maintain a full set of teeth for longer than those without lacquered teeth.

Similar procedures of tooth blackening and filing were also performed by tribes from Indonesia and the Philippines. Back in 1938, a French survey found 80% of the countryside folk of Vietnam had blackened teeth. Medieval kings of Vietnam and other Southeast Asian countries also blackened their teeth.

The procedure has been quite popular throughout Asian history.

But when the French came to Vietnam, they did not appreciate the implied beauty and the procedure was discouraged.

Since then the numbers of Vietnamese dropped drastically, but in these modern times the traditional people of Vietnam are once again trying to revive an almost lost tradition.

 

https://heritageofjapan.wordpress.com/2012/08/29/the-ohaguro-the-japanese-teeth-blackening-custom-known-to-have-been-practised-from-the-kofun-period-was-shared-by-ancient-southeast-asian-tribes/
...


 

In turning our sights from the story of the Hundred Sons over to the history of the Hundred Việts, we have crossed the line from myth into reality.  The Hundred Việts were an actual people, who once inhabited the vast region now known as Southern China, as far back as 4000 B.C.  They were an agricultural people who engaged in farming, fishing, and the raising of animals.  The traditions of these people included dying their teeth to black, as well as the art of tattooing.

The culture of the Bách Việt people was rich with folklore, poetry, and humanistic teachings.  The system of government was at the village level, as many clans, tribes, and families cooperated with each other, with a king or village chief at the top.  It is from these numerous clans that the people, as a whole, became known in modern history as the Hundred Việts.  The main source of food for these societies was rice, as the rich fertile soil of the south made it perfect for rice cultivation.

In reality, there were about ten to twenty different clans, the name Bách Việt (Hundred Viet, Bai Yue), is just the general title to describe the society as a whole.  Bách Việt was a peaceful society that did not engage in warfare with other regions.  The philosophy of the Bai Yue always spoke of peace, compassion, and the importance of the human heart.  Unfortunately, due to their peaceful nature, the society became highly vulnerable to the nomadic tribes from the north, who raided and captured much of the Bách Việt’s land, along with their culture.

As a result of their peaceful ways and unpreparedness for combat, the clans of Âu Việt, Ư Việt, Hồ Việt, Mân Việt, Đông Việt, and many others, slowly fell to the northern invaders, one by one.  The invaders subsequently erased the history of these clans in order to assimilate them, a strategy that proved to be devastating to the people of Bách Việt.  The plans resulted in the vanishment of Việt culture for over two thousand years, only to be rediscovered in the 21st century.

Of the dozen Việt clans that existed throughout history, only one has prevailed in the face of northern aggression.  This one surviving clan, the one clan able to resist the relentless invasions of the north for more than 4000 years, is the clan of Lạc Việt.  The Lạc Việt clan was the main branch of the Hundred Viets, they were the most powerful, and the only clan equipped to fight back.

The descendants of the Lạc are the forefathers of Vietnam today, carrying on the traditions of a culture that has existed for more than 6000 years.  In distant history, they were the warriors of Nam-Việt, Jiaozhi, and then Đại Việt.  Today, they represent the 3 million people oversees, who live from places like Europe, to Australia, to North America.  They are also the 87 million inhabitants of Vietnam today, a population that is slowly preparing to fight for their freedom, no matter what the cost.

 

https://freedomforvietnam.wordpress.com/2011/01/24/the-history-of-the-hundred-vi%E1%BB%87ts/
...



Irrigation, agriculture (primarily rice farming), weaving and iron and bronze casting techniques were introduced to Japan from Korea and China between 300 and 100 B.C. Iron was used in weapons and farming tools. Bronze was made into swords, spears, dotaku (cylindrical bell-shaped objects) and mirrors used in religious rituals. The Yayoi people also used wooden ladles, hammers, ploughs and pestles. Yayoi pottery resembles pottery produced in Korea at the same time. The technique of weaving clothes arrived from China around 300 B.C. Early fabrics were made from hemp (for commoners) and silk (for nobility). Some were dyed red with an herb called madder.

“Although the pottery of the Yayoi was more technologically advanced--produced on a potter's wheel--it was more simply decorated than Jomon ware. The Yayoi made bronze ceremonial nonfunctional bells, mirrors, and weapons and, by the first century A.D., iron agricultural tools and weapons. The Yayoi people lived in homes with proper entrances and windows, elevated floors supported by pillars, and roof ridges surmounted by ornamental wooden blocks. There were also high-floored warehouses and granaries. A 2000-year-old rice ball was discovered in the town of Rokuseimachi in Ishikawa Prefecture in December 1987.

It is believed that the ancient Japanese during this period traded with China and Korea. Archaeologists working on Ashibe, a small island 15 miles off Kyushu, have found coins and small mirrors from China and Korea and dugout canoes and port, but no evidence of large ocean-going ships.

In April 2009, a curator a museum in Shiga accidently dropped and broke a 2,200-year-old Yayoi-period glass artifact that had been loaned to the museum by another museum in Saga.

Many archeologist looked upon the introduction of wet land rice farming techniques as the technological advancement that marked the beginning of the Yayoi period and the end of the Jomon period. In Kyushu people at red-kerneled rice.

Aileen Kawagoe wrote in Heritage of Japan: “The Yayoi farmers chose their rice field sites carefully. Initially, they preferred to choose not the swampy lowland locations that would be submerged by water most of the year, but high terraces or valleys backed by a hill or mountain were chosen. The Itatsuke site in Fukuoka was a settlement on a high terrace encircled by an oval moat. [Source: Aileen Kawagoe, Heritage of Japan website, heritageofjapan.wordpress.com <^>]

“However, as rice farming spread, and more and more land was cleared for farming, the Yayoi farmers needed more territory and moved into the alluvial plains. The mountains that surrounded the valleys and alluvial plains separated communities from each other, so that over the era various chiefdoms consolidated their control in marked territorities (such as Yamatai, Yamato, Kibi, Tsukushi, Izumo, etc.) in geographically distinct regions or areas. <^>

“Immigrants must have arrived in northern Kyushu, in Japan from the Asian continent with their wet rice farming knowledge and advanced irrigation techniques at their beginning of the Yayoi period. This is clear because the technology did not show gradual innovations or advances but even the earliest Yayoi rice fields were already a complex system of canals, dams, paddy-field walls, and water intakes and outlets” to irrigate their fields. The immigrants had brought with them, new customs and traditions as well as their knowledge of how to make metal tools (iron and bronze). (While wet rice or paddy fields were cultivated and wet-rice agriculture flourished, dry-field agriculture was practiced as well elsewhere in Japan.)” <^>

“Besides rice, 37 kinds of cultivated plants were known to have been grown, including foxtail millet, adzuki beans and barley. However, rice was the most important food, a fact shown by the high percentage that was recovered from excavations compared to other cereals." <^>

Kawagoe wrote: “Wooden stakes were used to outline or divide the rice fields which were enclosed by embankments walled with wooden planks. The Yayoi villagers dug ditches that sometimes doubled as defensive moats. Canals were built to ensure a constant and controllable water supply system for irrigating the rice paddy. At Itatsuke, the canals had a dam for collecting water with an outlet for letting water into the rice field. Also amazing were the drainage canals that had been constructed under the rice fields so that the water could be recycled and channeled back into the rice fields. [Source: Aileen Kawagoe, Heritage of Japan website, heritageofjapan.wordpress.com <^>]

“The Yayoi farmers had learnt by the 3rd century A.D., that they could improve their rice yield by transplanting rice seedlings from seedbed into paddy field in orderly and weedable rows. When the farmers created new rice fields or built their waterways and canals, they worked closely and cooperated with one another. They cultivated the fields with wooden rakes and hoes. The most common material used for making farming tools was hard oak wood. Stone hoes and reaping knives were used for harvesting rice. Some reaping knives were made of wood and shell but during the late Yayoi period, an iron edge was added to reaping knives made of wood. Reaping knives were often used together with the crescent-shaped sickles used for cutting at the base of the entire rice stalk. <^>

“Few iron farming tools have been found, either because iron was still too scarce to be used for farming or because iron from the tools were constantly recycled and re-used. However, during the later part of the Yayoi period, iron tools began to replace stone ones. Iron provided sharper cutting edges so improving food production. The tools were durable and made tasks such as clearing of land for agriculture more efficient.

"Other wooden tools such as eburi or paddy field smoothers, ooashi or paddy field trampers, paddy field sandals and others were found at the Toro site in Shizuoka prefecture. Other objects also found at the Toro included ground stone arrowheads, ground stone axes, spades, fire-making mortars, weaving looms, and small boats for rice fields."lt;^>

"They harvested the rice and stored the rice in storage jars in underground storage pits or in elevated storehouses (similar to those in southern China). At excavated sites like the Toro Ruins, a Yayoi farming settlement located in a coastal plain in Shizuoka prefecture, pottery recovered consisted of storage jars, cooking jars, pedestalled dishes and serving bowls. <^>

"During the earliest Yayoi days, storage jars and a type of cooking pot that emerged in Kyushu and that had spread to southwestern Japan were clearly influenced by Korean mulmun plain pottery. But in other areas of Japan, Jomon styles of pottery modified or were incorporated into the Korean-influenced storage jars and cooking pots that were associated with agricultural uses." <^>

Dating Rice Agriculture and Defining the Yayoi Period

carbonized rice grains from Nabatake site, 5th to 4th century BC

For a long time the earliest evidence of rice farming was dated to around 300 B.C. which worked nicely into models that it was introduced when the Koreans, forced to migrate by upheaval in China n the Warring States Period (403-221 B.C.), arrived around the same time. Later a number of Korean objects, dated between 800 and 600 B.C., were found. These discoveries upset the neatness of the model.

Then in the early 2000s, grains of wetland rice were found in pottery from northern Kyushu dated to 1000 B.C. This called into question the dating of the entire Yayoi period and caused some archeologist to speculate that maybe wet-land rice farming was introduced directly from China. This assertion is backed up somewhat by similarity in skeletal remains of 3000-year-old skeletons found in Quinghai province in China and Yayoi bodies unearthed in northern Kyushu and Yamaguchi prefecture.

Charles T. Keally wrote: “Exactly when, how and why rice farming first came to Japan is still one of the major controversies in Japanese archaeology. Rice has been found in sites dating about 1000 B.C., at the end of Late Jomon and the beginning of Latest Jomon. These sites, as far as I know, are all in Kyushu, except one, which is in Hachinohe on the Pacific coast of Aomori Prefecture, at the northern end of the central island of Honshu. Rice farming spread all over western Japan around 400-500 B.C. (uncalibrated radiocarbon age) and is also found in a number of sites in Aomori Prefecture, apparently spreading up the Sea of Japan coast along the Tsushima Current, together with the spread of one of the oldest recognized styles of Yayoi pottery, Ongagawa. Recent studies of plant opal (phytoliths) from Jomon sites claim possible evidence of domesticated rice in western Japan as early as 3000 B.C. or earlier, in Middle and possibly Early Jomon. [Source: Charles T. Keally, Professor of Archaeology and Anthropology (retired), Sophia University, Tokyo, net.ne.jp/~keally/yayoi ++]

“There is general agreement that the ultimate origin of rice is the east-central lowlands of China. A southern route via the Ryukyu islands into southern Kyushu seems generally out of favor. I think both the Chinese archaeological and environmental evidence argue strongly against a northern route via northeastern China and northern Korea, although some archaeologists do favor that hypothesis. The present evidence neither confirms nor denies either a direct route to Kyushu from China or a route via southern Korea.

Japan Rice Dated to 1000 B.C.

Yayoi-era foods

In May 2003, Japanese scientists at the National Museum of Japanese History (NMJH) in Chiba, outside Tokyo, announced that had dated rice samples from Yayoi pottery to 780 to 830 B.C. and said the results implied that rice agriculture in Japan dated back to 1,000 B.C.. Mineo Imamura, the chemist heading a project at the museum to scientifically date archaeological materials, sent food residue samples from 11 early Yayoi pottery pieces to an accelerator mass spectrometry lab in the United States. Dennis Normile wrote in Science magazine, “Results from 10 of the 11 pots put their ages at 780 to 830 B.C. Because there are more primitive Yayoi pottery samples, they speculate the actual start of the Yayoi period should be about 1000 B.C. Harunari says this indicates that the use of rice paddies spread eastward half a millennia before the Warring States period. The group presented their findings during the spring meeting of the Japanese Archaeological Association” on May 25, 2003. [Source: “Earlier Start for Japanese Rice Cultivation” by Dennis Normile, Science magazine, May 30, 2003]

The National Museum of Japanese History reported: NMJH has been conducting studies on the application of high-precision C14 dating techniques with the use of Accelerator Mass Spectrometry (AMS). This research was approved in order to confirm preliminary results that the Yayoi period had started in the 10th century BCE, or 500 years earlier than previous archaeological theories have proposed. At the end of 2003, NMJH established a research facility to create a framework for C14 dating experiments. With the award of the grant, the group decided to conduct nation-wide research on age determination, primarily of Yayoi period remains. [Source: “The Origin of the Farming in the Yayoi Period and East Asia: Establishment of High-Precision Chronology by Carbon 14 Age Analysis”, National Museum of Japanese History (NMJH), 2004 +++]

“In the 2004 fiscal year, more than 2,000 samples of wood, seeds, and carbide residue on earthen vessels were extracted from 190 sites; among them, measurements were conducted on 500 samples. As a result, we speculate that irrigated rice cultivation of the Yayoi cultures first appeared in northern Kyushu approximately 930 BCE and that the “early Yayoi” period began around 800 BCE. We also tentatively concluded that “early Yayoi” culture appeared in the Chugoku and Kinai areas between 700 and 600 BCE, 100 to 200 years later than northern Kyushu. We are also beginning to get a clear picture of ocean reservoir effects and millet. +++

“The earliest archaeological sites are Itazuke site or Nabata site in the northern part of Kyushu. The origin of Yayoi culture has long been debated. Chinese influence was obvious in the bronze and copper weapons, dokyo, dotaku, as well as irrigated paddy rice cultivation. Three major symbols of the Yayoi Culture are the bronze mirror, the bronze sword, and the royal seal stone. +++

“In recent years, more archaeological and genetic evidence has been found in both eastern China and western Japan to lend credibility to this argument. Between 1996 and 1999, a team led by Satoshi Yamaguchi, a researcher at Japan's National Science Museum, compared Yayoi remains found in Japan's Yamaguchi and Fukuoka prefectures with those from early Han Dynasty (202 BC-8) in China's coastal Jiangsu province, and found many similarities between the skulls and limbs of Yayoi people and the Jiangsu remains. Two Jiangsu skulls showed spots where the front teeth had been pulled, a practice common in Japan in the Yayoi and preceding Jomon period. The genetic samples from three of the 36 Jiangsu skeletons also matched part of the DNA base arrangements of samples from the Yayoi remains." +++

Implications of the 9th Century B.C. Dating of Japanese Rice

Dennis Normile wrote in Science magazine, The “new dates for food residue scraped from ancient Japanese pottery have touched off a storm of controversy in Japan's archaeological community. The findings play into the debate over how and when rice paddy agriculture spread from central China. “This could change our understanding of Asian antiquity," says Hideji Harunari, an archaeologist at the National Museum of Japanese History in Chiba. [Source: “Earlier Start for Japanese Rice Cultivation” by Dennis Normile, Science magazine, May 30, 2003 \+/]

“Rice cultivation in paddies is widely believed to have emerged along the Yangtze River in central China about 8000 B.C. How and when it spread eastward is less clear. One theory holds that immigrants fleeing the turmoil of China's Warring States period, beginning about 450 B.C., took the technology overland to present-day Korea, then across the relatively narrow Korea Strait to Japan's Kyushu Island. An alternative theory is that seafaring traders carried the technique to lands bordering the Yellow and East China seas around 1000 B.C. or earlier.

“In Japan, the spread of rice cultivation is one of the marks of the beginning of the Yayoi Period, which has been pegged to 500 to 400 B.C., mostly by speculative analysis of evolving pottery techniques. “There have really been very few actual measurements [of artifacts]," says Imamura. \+/

“An earlier start for the Yayoi Period would also mean refiguring an important era in Japanese history. The spread of rice paddy agriculture led to population growth, increasingly large and sophisticated settlements, and chiefdoms. The consolidation of several chiefdoms led to the emergence of a prototypical Japanese nation mentioned in Chinese records of about A.D. 300. Harunari says if their new date for the start of the Yayoi Period is correct, this cultural process took 1200 years instead of the currently accepted 700 to 800 years. But Fujio Oda, an archaeologist at Fukuoka University, and others want more evidence before Japan's history books are rewritten. “We really need a lot more data and not just results from one particular age," Oda says. \+/

Kawagoe wrote: “Rice is thought to have originated from Hemudu and Pengtoushan area of China between 7,000 to 8,000 years ago. So why did it take around 5,000 years for rice agriculture to diffuse or spread to Japan? Archaeologists and historians believe that the time-lag in taking up rice farming for Japan was due to the roundabout route that rice took to arrive along with migrants into Japan. Rice was thought to have originated from Changjiang and brought to the Korean peninsula, then via the Korea-Tsushima strait into Northern Kyushu. There are two other possible routes over which migrants may have taken the rice to Japan (from southern China through the Ryukyu islands too southern Kyushu; or directly from Chanjiang to northern Kyushu) but most experts are currently agreed that archaeological evidence supports only the Korean route." [Source: Aileen Kawagoe, Heritage of Japan website, heritageofjapan.wordpress.com <^>]

Dr. Wilhelm Solheim's hypothesized that boat-people plying their trades along the Chinese coast, seeking wider markets eventually arrived on the coasts of Korea and Japan, bring their rice culture with them. Keally wrote: “There they set up seasonal settlements. These settlements later became permanent, and the settlers farmed rice for their own use. This practice soon spread to the native peoples -- the Jomon people in Japan -- who added rice farming to their subsistence base while teaching the colonists aspects of their native way of life. As the colonists became well adapted to the new lands, their populations exploded, supplemented by immigrants from the Korean peninsula, perhaps trying to escape the turmoil caused by the collapse of the Chinese Chou Dynasty and the establishment and expansion of the Han Dynasty. There are many other hypotheses." [Source: Charles T. Keally, Professor of Archaeology and Anthropology (retired), Sophia University, Tokyo, net.ne.jp/~keally/yayoi ++]

Kawagoe wrote: “Along with rice grains, Korean-style pottery, pit-dwellings, storage pits and stone tools similar to those found in Korea and shell harvesters, also appeared in Japan around the 400-500 B.C. date. Rice found in southern China (the original source) was of two kinds: long and slender grained, as well as short and fat grained. In Yayoi Japan however, only the short grained type of rice is found. Because rice is a subtropical plant used to being grown in warmer climates, it took time for rice to be adapted to the cooler climates of northern China, Korean peninsula and to Kyushu which was wet and cool during Yayoi times. As rice traveled with migrating tribes, the long and thin grained variety was discarded along the way, because short grained rice proved to be better suited to growing conditions in Korea and Japan. <^>

“The earliest rice fields of Yayoi Japan ever discovered were in northern Kyushu at the Nabutake site in Saga prefecture, and in Fukuoka prefecture, at the Itatsuke and Notame sites. But the one excavated site that captivated everyone's interest was at Toro in Shizuoka prefecture. Buried by a flood, the Toro rice farming village was preserved in particularly excellent condition. Although it had taken rice agriculture 5,000 years to take hold in Japan, once it did, rice farming as a way of life took less than 300 years to spread northwards and eastwards right across Honshu island all the way to the northern tip. Rice was cultivated in northern Tohoku before the Yayoi period came to an end. <^>

“Rice farming spread from Kyushu eastwards and northwards to Shimane's coastal plains and mountain valleys through two major routes: the “Sea of Japan” road along the Japan Sea coast and the “Mountain Road” over the Central Japan mountain ranges and the Yayoi village began to emerge in various regions. <^>

Linguistic Evidence for the Spread of Rice Agriculture from East China to Korea and Japan

In 2012, John Whitman of the National Institute of Japanese Language and Linguistics at Cornell University wrote: “The languages of Northeast Asia show evidence of dispersal from south to north, consistent with the hypothesis that agriculture spread north and east from the vicinity of Liaoning, beginning with the millets approximately 5500 BP. Wet rice agriculture in Korea and Japan results from a later spread, also beginning in Shandong, crossing via the Liaodong peninsula and reaching the Korean peninsula around 1500 BCE. This dispersal is associated with the Mumun archaeological culture after 1500 BCE in the Korean peninsula and the Yayoi culture after 950 BCE in the Japanese archipelago. [Source: “Northeast Asian Linguistic Ecology and the Advent of Rice Agriculture in Korea and Japan” by John Whitman, Rice, December 2011, Volume 4, Issue 3-4, pp 149-158 January 14, 2012 *~*]

“From a linguistic standpoint, it is associated with the entry of the Japonic language family, first into the Korean peninsula, subsequently into the Japanese archipelago. The arrival of Koreanic is associated with the advent of the Korean-style bronze dagger culture and a temporary hiatus in wet rice agriculture sites around 300 BCE. Both Koreanic and Japonic are relatively shallow language families, with Koreanic the shallower of the two, consistent with the chronology above. The gap between the earliest linguistically motivated dates for these language families and the archaeological events is the result of a linguistic founders effect, providing further evidence for demic diffusion as a source for their distribution. *~*

“I have sketched a specific historical scenario that attempts to explain the linguistic ecology of the non-Sinitic language families in Northeast Asia associated with wet rice agriculture, Japonic and Koreanic. This scenario is couched within the general hypothesis of a diffusion of agriculture from the area around the Shandong peninsula to the north and east. According to the scenario, Japonic arrives in the Korean peninsula around 1500 BCE and is brought to the Japanese archipelago by the Yayoi expansion around 950 BCE. On this view, the language family associated with both Mumun and Yayoi culture is Japonic, although the association of a culture in the archaeological sense with a single language family is almost certainly an oversimplification. *~*

“Koreanic arrives in the south-central part of the Korean peninsula around 300 BCE with the advent of the Korean-style bronze dagger culture. Its speakers coexist with the descendants of Mumun cultivators, and thus with Japonic, well into the common era. Each of these demic diffusions, as well as the later dispersions of Koreanic and Japonic, result in founder effects which diminish the internal variety of the language family. Japonic and Koreanic, as well as possibly other Northeast Asian languages, share some agricultural vocabulary, but this shared vocabulary precedes rice farming." *~*

Impact of Rice Agriculture on Yayoi Japan

Kawagoe wrote: Rice is a highly nutritious food and can be grown to feed and sustain a large population. It allowed for a stable settled lifestyle instead of a nomadic hunter-gatherer one. Archaeologists have noted that following the introduction of rice farming, the population in Yayoi Japan saw an astonishing increase in the number and size of its village settlements. Experts have estimated that the Yayoi population increased by between 25 times to 70 times over a thousand years beginning with the Yayoi era. Some of that increase was due to migrants from the Asian continent, but much of the population increase was also naturally due to the more stable source and quality of nutrition for the Yayoi people. [Source: Aileen Kawagoe, Heritage of Japan website, heritageofjapan.wordpress.com <^>]

“Rice farming technology also changed the way people did things, the way they lived and even changed social relationships for the people living in the Yayoi society. Rice grains and dry swidden rice field sites have been excavated in Kyushu dating to an earlier time around 1,000 B.C. But it is thought that at the time rice farming made no impact on Jomon culture nor did it affect the economic foundation of society. It wasn't until half a century later when wet-rice farming techniques and agricultural tools appeared on the scene, that rice farming is considered to have been introduced on a full scale in Yayoi Japan. Around that time, migrants entered Japan in large numbers and brought with them crops and farming technology along with bronze and iron tools and objects." <^>

Did intensive agriculture bring more violence? Of the 5,000 skeletons excavated before the arrival of agriculture only 10 showed signs of violent death. Of the 1,000 dated after the arrival of agriculture more than 100 show such signs.

Fish farming in the form carp farming is believed to have originated in Japan in the Yayoi period. The conclusion is based on the discovery of fossils of young carp teeth at an archeological site near Nagoya in what appears to have been a moat. Kyodo reported: “People in the Yayoi Period might have engaged in carp farming to provide sustenance during the winter, a group of researchers said. According to the group, the find at the Asahi site in Aichi Prefecture, a huge moated settlement that existed from the fourth century B.C. to the fourth century A.D., suggests it engaged in what would be the earliest known form of carp farming in Japan. [Source: Kyodo, Japan Times, September 19, 2008]

Tsuneo Nakajima, the curator of the Lake Biwa Museum, which contains the fossils, told Kyodo, “I suppose Yayoi people released carp in the spawning season into rice fields, moats or ponds, and that the fish produced eggs — primitive farming probably started in such a way. In addition to adult fish caught in rivers, Yayoi people must have dried young fish they had bred to preserve for winter sustenance."

The young carp teeth were found in a different place than adult teeth. It is unlikely the two groups occurred in separation like this naturally and thus suggests fish farming. The technology for fish farming is believed to have been introduced from China along with rice farming, Carp teeth were found in remains from the earlier Jomon Period but did not include those of young carp, which indicates Jomon people were unlikely to have engaged in fish farming.

Deer was another important source of food. In some places they achieved divine status. They are often depicted on haniwa, ceramic figures placed around grave mounds, dating from A.D. 3rd to 6th centuries. Artifacts found at Yayoi sites have included stone sinkers for fishing nets and fish-hooks made of antler. Deer scapulae used for divination, indicated that the shaman religion played an important role in the society.

Kawagoe wrote: Wild boars were kept in the Yayoi village as during Jomon times. Archaeologists have also identified some excavated bones to be those of the domesticated pig, most certainly introduced from the mainland. The Yayoi people also continued to hunt animals and to fish, and gather wild roots, vegetables and fruit to supplement their rice-based diet. [Source: Aileen Kawagoe, Heritage of Japan website, heritageofjapan.wordpress.com <^>]

 

http://factsanddetails.com/japan/cat16/sub105/entry-5287.html




The Rubisco enzymes from red algae are among the most attractive choices due to their remarkable preference for carboxylation over oxygenation reaction. However, the biogenesis of Rubisco is extremely complex. The Rubisco enzymes in plants, algae, and cyanobacteria are made up of eight large and eight small subunits.




 

Of the more than 6,000 species of red algae, most are, not surprisingly, red, reddish, or purplish in color. Red algae are protists or microscopic organisms in the phylum Rhodophyta, and range from simple one-celled organisms to complex, multi-celled organisms.



 

All algae get their energy from photosynthesis, but one thing that distinguishes red algae from other algae is that their cells lack flagella, the long, whiplike outgrowths from cells that are used to generate locomotion and sometimes serve a sensory function. Also surprisingly, they are not technically plants, although like plants they use chlorophyll for photosynthesis and they have plant-like cell walls.






When you think of algae, you might think of organisms that are usually green or brown. So what is it that gives red algae their distinctive hue? Red algae contain a variety of pigments, including chlorophyll, red phycoerythrin, blue phycocyanin, carotenes, lutein, and zeaxanthin. The most important pigment is phycoerythrin, which provides these algae with their red pigmentation by reflecting red light and absorbing blue light.




Not all of these algae are a reddish color, though, as those with less phycoerythrin may appear more green or blue than red due to the abundance of the other pigments.






Red algae are found around the world, from polar waters to the tropics, and are commonly found in tide pools and in coral reefs. They also can survive at greater depths in the ocean than some other algae, because the phycoerythrin's absorption of blue light waves, which penetrate deeper than other light waves do, allows red algae to carry out photosynthesis at a greater depth.

Classification of Red Algae

Kingdom: Protista
Phylum: Rhodophyta

Some common examples of red algae include Irish moss, dulse, laver (nori), and coralline algae.
  
 


Coralline algae help to build tropical coral reefs. These algae secrete calcium carbonate to build a hard shell around their cell walls. There are upright forms of coralline algae, which look very similar to coral, as well as encrusting forms, which grow as a mat over hard structures such as rocks and the shells of organisms such as clams and snails. Coralline algae are often found deep in the ocean, at the maximum depth that light will penetrate the water.

 


Red algae are an important part of the world's ecosystem because they are eaten by fish, crustaceans, worms, and gastropods, but these algae are also eaten by humans.



Nori, for example, is used in sushi and for snacks; it becomes dark, almost black when it is dried and has a green hue when cooked. Irish moss, or carrageenan, is an additive used in foods including pudding and in the production of some beverages, such as nut milk and beer. Red algae are also used to produce agars, which are gelatinous substances used as a food additive and in science labs as a culture medium. Red algae are rich in calcium and sometimes are used in vitamin supplements.


https://www.thoughtco.com/red-algae-rhodophyta-2291974






The Center For Biological Diversity has filed a petition to include the Monarch butterflies in the list of endangered species, and to do the needful to protect them and help them survive, which is still under review by the Fish and Wildlife agency. 




For an  ‘On the Ground Conservation’ project, the agency has provided $2 million to make the basic arrangements. Some federations are helping to create awareness among the locals and the farmers about the importance of milkweed, and its role in multiplying the population of the endangered Monarch species.  




They will provide milkweed seeds for everyone who is interested and willing to contribute in this attempt of creating a natural habitat for this species. These allotted seeds are supposed to be planted in any open spaces like roadsides, forests, parks, patio flower boxes, in own house backyards  and several other similar places.


Indrapura was the capital city of the ancient kingdom of Champa from 875 CE,[1]:122 for several decades,[2][3]:72,93 under the reign of Indravarman I (877-890) and some of his followers belonging to the 6th dynasty in Dong Duong.[3]:53 The word Indrapura means "City of Indra" in Sanskrit, Indra being the Hindu God of Storm and War, and King of the Gods in the Rig Veda. The site is near the present-day village of Ðông Duong, not far from the modern city of Da Nang, Vietnam. Unlike his predecessors, Indravarman II was a Mahayana Buddhist, so he built a great Buddhist temple, which has been destroyed by Vietnam War bombings and nowadays even by looting of bricks. The Museum of Cham Sculpture ("Bao Tang Cham") at Da Nang, founded in 1915 by the École française d'Extrême-Orient (EFEO), has a valuable collection of Cham sculptures, which were retrieved from Ðông Duong as well as from other archeological sites, such as M? Son and Tra Kieu. https://en.wikipedia.org/wiki/Indrapura_(Champa)
...

The Fish and Wildlife agency has decided to cultivate the milkweed plant in refuges and several other areas under its control to develop a natural habitat in 2,00,000 acres of land and 35 corridor Interstate, from Texas till the state of Minnesota, which is believed to be the main area where above 50% of Monarch butterflies migrate.  




They are planning to persuade the other states and federal agencies to follow the same procedure and cultivate this hardy plant in public lands. Encouraging the Canadian and Mexican governments, the Fish and Wildlife agency will surely have worked out an impressive plan to increase its population manifolds.



 
Two cities, namely, St. Louis and Charlotte have worked out plans and were successful in accomplishing them to claim themselves as the present sanctuaries for the Monarch butterfly. The president of the National Wildlife Federation, Collin O’Mara suggests that every homeowner should follow the same plan, and create a habitat for these species in their garden or backyard, wherever place is available.




The National Wildlife Federation and The Fish and Wildlife Service are committing 1.2 million $ and 2 million $ respectively to be used across the nation to work with businesses, community groups, schools and local government. This fund is used to reach the goal of creating a habitat in 20000 acres and 750 Monarch Way stations in schools and other premises.



 
Some initiatives are also taken to cultivate the milkweed plants in ISU greenhouses. A thousand seeds, of the milkweed plant belonging to nine different species will be grown in ISU greenhouses. When it reaches the seedling stage, it will be replanted into the plots used for demonstration in the thirteen farms involved in this research. The researchers present there, will carefully monitor the plants, like how they thrive, adapt sand proliferate. 




They will also study the Monarch butterflies arriving at the site, its egg laying pattern, and all other stages of life. Such research will help the people to understand the growing pattern of different milkweed species, and they could follow the same in their own Monarch Way station.


Irish Coffee Ice Cream
Yield: one pint
1 1/4 cup heavy cream
2/3 cup sweetened condensed milk
2 tablespoons instant espresso powder
2 tablespoons Irish whiskey
dark chocolate shavings (optional)



To save the Monarch species, at the national level, President Obama and the authorities of Mexico and Canada have decided to develop a combined task force from three countries, and passed a memorandum in the White House, asking for a federal strategy that will restore the health and number of pollinators like Monarch. This Pollinator Health Task Force was formed by the urging of the farmers, scientists and educators. 

https://www.monarch-butterfly.com/vanishing-monarch-butterflies.html


Hoi An is a famous destination with its Ancient Town, which is an example of trading harbor city in Southeast Asia during 16th Century. However, there are more than that. Before this land is possessed by Vietnamese people, it had been the land of Champa Kingdom until 14th century.




One of the most famous sites in Hoi An is My Son Sanctuary, locates 40km from the Ancient Town where travelers can visit with a day trip. The Sanctuary is a complex of Champa towers, covered around by mountains and hills. This was the place for Champa Kings and Royal family worship Shiva God, and also the place where their tombs were.




My Son is one of the Hinduism towers center in Southeast Asia, and was accorded as a World Heritage in 1999, as an evidence of an extinct civilization. If you have made hotels booking Hoi An, read below for more information about the lost kingdom in Hoi An and visit it the moment you have chance!




Before the 13th century, Vietnam was not a united country from Ha Giang (the Far North) to Ca Mau (the Mekong Delta), Vietnam was Dai Viet under the Ly Emperors, from North to Ha Tinh Province. From Quang Binh to the South was the land of Champa Kingdom (along the East Sea to Binh Thuan Province) and Khmer Empire.




Champa was not a united kingdom, but a group of 5 small kingdoms: Indrapura, Amaravati, Vijaya, Kauthara and Panduranga. Amaravati is where Da Nang and My Son nowadays belongs to. Indrapura was a city in Amaravati, was the capital of Champa Kingdom. Champa Kingdom existed from 192 and collapsed in 1832, after the conquest under Minh Mang Emperor.



Champa culture was influenced by Indian, Cambodian and Java culture. Indian culture and Hinduism traveled to Champa through Angkor Kingdom, the ancient Cambodia. Sanskrit became the main language, Hinduism, especially Shaivism, became an official religion. From the 10th century, Muslim and its culture entered Champa with Arabian traders, but had not become the main religion until 17th century.




Under the conquests and exchanges of Dai Viet, plus the isolation of the world as Champa’s main seaports were lost in to Vietnamese, Champa Kingdom had fallen into a decline and collapsed in 1832.




My Son Sanctuary was supposed to be built since 4th century. My Son was influenced by Hinduism, Indian culture and architecture, which was shown in its towers and carved ancient Sanskrit.



At first, there was a temple built of wood in 4th century. However, the temple was burned down 2 centuries later. Then from the beginning of 7th century, Sambhuvarman Emperor rebuilt the temple using bricks and it has been lasting until now. This technique is now still a mystery.



My Son Sanctuary was the religious and cultural center of Champa Kingdom when this kingdom capital was Tra Kieu and Dong Duong.




If you are interested in culture and history, after making your hotels booking Hoi An, start a plan to visit and explore this mysterious land. You can go by yourself, and you can also book a private or group tour for your convenience.


https://www.hotelshoian.com/travel-news/hoi-an/the-lost-kingdom-in-hoi-an.html




When plant scientists talk about wheat breeding, they often say “Wheat is more complicated than corn or rice.” What does that really mean and why is it so?

Every cell in every living thing, plant or animal, contains deoxyribonucleic acid (DNA) which holds the instructions for all of the processes and parts of the cells.

DNA is organized into long structures called chromosomes. Because of the way different species have developed, some of them have more chromosomes than others.


Further complicating the matter, different organisms have different numbers of copies of chromosomes. So while a human cell (diploid) has two copies of 23 chromosomes for a total of 46 chromosomes, a wheat cell (hexaploid) has six copies of its seven chromosomes (42 chromosomes total). Corn has 20 chromosomes total, and rice has 24.

For gene sequencing purposes, that means wheat has 21 different chromosomes to map, because they come in pairs.


While wheat has fewer pairs of chromosomes than humans, it has a greater number of genes, with an estimated 164,000 to 334,000 genes, compared to 20,000 to 25,000 genes for a human.  A gene is a stretch of DNA which holds specific instructions for an organism’s structure or function.

Rice, corn, and wheat all come from a common ancestor about 55 to 75 million years ago, but have changed significantly from each other since then.

“Wheat gets two copies of each set of chromosomes from each of its ancestors,” said Dr. Scott Haley, Colorado State University wheat breeder, “Each of those copies is different. They were all grassy species, so there is some similarity between them, but there are also differences.”

A genome is all of a living thing’s genetic material, the entire set of instructions for the creation and the function of an organism. Wheat has the largest genome among commonly grown agricultural crops.

Each of the sets of three wheat chromosomes is almost twice as large as the human genome and the entirety of the rice genome fits on just one half of one of wheat’s 21 chromosomes.
Breaking Down the Genome

The building blocks of DNA are base pairs. Each base pair is one rung on the DNA double helix (the double helix is like a spiral ladder), made of two nucleotides (structural units of DNA), and joined in the middle by a hydrogen bond. Each rung is a base pair.

Wheat contains about 16,000 mega base pairs. (Mega base pairs = 1 million base pairs.) The human genome is estimated to have 3,000 mega base pairs, while the corn genome has 2,300 mega base pairs, and the rice genome has 420 mega base pairs.

Why is it important to sequence the wheat genome when plant breeders have made great strides in increasing yield and finding disease and insect resistance through traditional breeding methods?

The object of mapping the genetic code (or genome) of wheat is to find the location of genes that are beneficial through increasing yield, protecting the plant from insect or disease pressure, and other stresses such as drought, heat, and frost.

The Colorado Wheat Administrative Committee (CWAC) has supported the International Wheat Genome Sequence Consortium (IWGSC) with annual funding of $7,500 toward sequencing the wheat genome. The IWGSC is an international consortium of wheat growers, public and private breeders and scientists.

“We know sequencing of the wheat genome won’t happen overnight, but it is important to continue research on this project. When the genome is mapped, it will be a major breakthrough for wheat breeding, and will allow improvements in varieties to take place more quickly,” said Dan Anderson, Haxtun, CWAC president.


The three genomes (A, B and D) of common bread wheat with each of the seven sets of chromosomes from each ancestor. The ancestors were each diploid (two sets of chromosomes) and came together in nature to produce hexaploid wheat.


Several groups around the world are working on decoding wheat’s genetic sequence. A team of British researchers, funded by the Biotechnology and Biological Sciences Research Council (BBSRC), announced in August 2010 that they had sequenced the wheat genome.

After an initial media frenzy, the wheat genome sequence released by the researchers has been described as unassembled raw data. At the time, the IWGSC said it “. . .strongly disagrees with implications that the sequence represent in any way the sequence of the wheat genome or that this work is comparable to genome sequences for rice, maize, or soybean.”

Dr. Pat Byrne, CSU professor of Plant Breeding and Genetics, said, “The ‘draft wheat genome’ contains sequences of many thousands of DNA fragments, but they are not assembled into a linear order corresponding to chromosomes. This limits its usefulness. Still, the ‘draft genome’ has been used by CSU post-doc Harish Manmathan, who works on the CWAC- and Colorado Wheat Research Foundation (CWRF)-funded project in novel trait development through TILLING (Targeted Induced Local Lesions in Genome).

For example, based on reports of a gene related to drought tolerance in the wild mustard plant Arabidopsis, he used the Arabidopsis gene sequence to search the draft genome for similar sequences in wheat. He was able to verify that a variation of the same gene exists in wheat, but not how many copies there are or where the gene(s) are located.”
What does this mean for Colorado?

Knowledge of the location of helpful genes on the chromosome can help plant breeders more rapidly advance new traits and varieties to increase wheat yields to help feed a growing world population. When Colorado wheat farmers voted to increase the wheat assessment in 2007, increased research funding allowed CSU to start a new program: DNA-marker assisted selection. CSU is developing experimental lines with desired trait combinations using markers reported in scientific literature, and also working to identify other markers of interest in their own breeding program.


This graph shows the size of the wheat genome relative to the size of several plants whose genomes have already been sequenced or are currently being sequenced. Graph courtesy of James Schnable, PhD. candidate in Plant Biology, University of California/Berkeley, www.jamesandthegiantcorn.com.


In traditional wheat breeding, two varieties of wheat are selected to be crossed because they both have desirable traits, such as insect resistance, high yield, or drought tolerance. The crossing is done by hand pollination. Wheat is a highly self-pollinating plant, so the pollen has to be removed by hand before it has a chance to pollinate the plant. Then, the plant is hand pollinated with pollen from the variety or line the breeder wants to cross with. The generation of plants that result from that cross is then inbred by self-pollination to produce a type that doesn’t change with more cycles of seed generation.

Increased knowledge of the wheat genome has allowed breeders to start using DNA marker-assisted selection in their breeding programs. DNA markers are identifiable DNA sequences, found at specific locations on the genome, and are either very close to or within the gene that confers a specific trait. They are transmitted by the standard laws of inheritance from one generation to the next.

The CSU wheat breeding program is currently using markers which are associated with stripe, leaf and stem rust (Ug-99) resistance; wheat streak mosaic virus resistance; Russian wheat aphid (RWA) resistance; and wheat stem sawfly resistance.  Other targets relating to wheat quality include gluten strength, pre-harvest sprouting tolerance, and polyphenol oxidase content (PPO, the enzyme that darkens fresh noodles or doughs).




Marker-assisted selection has become an important part of the CSU wheat breeding program. Haley said that every single preliminary line (1,200 lines for this breeding cycle) is being assayed with several DNA markers.  Working in collaboration with Texas A&M University, the CSU wheat breeding program has identified DNA markers linked with the wheat streak mosaic virus resistance in Snowmass and RonL (hard white winter wheat varieties).



DNA sequence showing a mutation that causes a higher level in amylose, which is similar to fiber with regards to beneficial effects on human health. This sequence-based analysis of single base mutations is the same concept CSU is using to look for other types of mutations, including increased drought, insect and herbicide resistance.


With the advent of lower cost DNA sequencing, the CSU wheat breeding program is also exploring implementation of a novel breeding method known as “genomic selection.” Using these technologies, coupled with rapid breeding line development using wheat x maize doubled haploids, the breeding program hopes to dramatically accelerate breeding improvements in the future.

“This new method, if and when it is shown that it actually works, may revolutionize wheat breeding in the future,” said Haley.
“I am excited that we are on the cutting edge of this research and have the tools and funding resources necessary to see if it works!” Funding for this new initiative is provided by both CWAC and CWRF.


https://coloradowheat.org/2013/11/why-is-the-wheat-genome-so-complicated/




In terms of Traditional Chinese Medicine (TCM) Rice is known for its ability to strengthen qi and blood of the spleen and stomach. The flavor of rice is sweet, and it is considered to be neutral in temperature.

According to some texts Rice has a function to expel toxins. Whole brown rice is high in B vitamins and may help to "relieve mental depression" (HWWF 472). A single handful of brown rice chewed thoroughly as the only food in the first meal may help to expel worms.

For infants who can not tolerate mother's milk feed them roasted rice tea. To make this tea pan fry rice until dark brown, add water, and simmer for 20 minutes. The liquid is then taken as a tea 2-3 times per day.

According to some texts rice can help alleviate summer heat. Basmati rice is aromatic and considered better for people with damp, overweight, and other stagnant conditions. Long grain rice is less sticky.

Sprouted rice is a common herb in Chinese nutrition. Sprouted rice is used for weak digestion and poor appetite in case of spleen-pancreas deficiency. Sprouted rice is helpful for treating food stagnation, and can help to reduce lactation for nursing mothers who have swollen painful breasts. Sprouted rice loses most of its therapeutic value when cooked. To use sprouted rice to strenghten the spleen-pancreas and improve appetite, lightly toast, powder, and mix into hot water.


http://chinesenutrition.org/view_image.asp?pid=343




Gluten refers to the proteins in cereal grains, such as wheat, barley and rye. Gluten is found in the endosperm (a type of tissue produced in seeds that are ground to make flour) and nourishes plant embryos during germination. Later on, gluten affects the elasticity of dough, acting as a glue to hold the food together, which in turn affects the chewiness of baked products.

Gluten is a mixture of hundreds of distinct proteins within the same family, although it is primarily made up of two different classes of proteins: gliadin, which gives bread the ability to rise during baking, and glutenin, which is responsible for dough's elasticity.

Not all grains contain gluten. Some examples of gluten-free grains are sorghum, millet, brown rice, buckwheat, wild rice, amaranth, quinoa, corn (polenta) and teff. Oats are also gluten-free, but can be contaminated during processing, said Lori Chong, a registered dietitian.
Is gluten bad?

Gluten is only bad for certain people. These people are gluten-sensitive or gluten-intolerant, which means their bodies produce an abnormal immune response when breaking down gluten during digestion. About 18 million Americans have gluten sensitivity, according to the National Foundation for Celiac Awareness.

The most well-known form of gluten intolerance is celiac disease, which affects one in every 141 people in the United States, according to the U.S. Department of Health and Human Services. When someone with celiac disease consumes gluten, it triggers an immune response that damages their intestines, preventing them from absorbing vital nutrients.

The chronic gastrointestinal disorder called irritable bowel syndrome (IBS) is another condition that is affected by gluten. IBS affects 7 to 20 percent of adults in the United States, according to a paper published in the journal Gastroenterology & Hepatology. Chong explained that gluten grains are high in starches and sugars that can be easily fermented by intestinal bacteria. This can cause bloating, cramping and/or diarrhea.

Wheat allergy is a rare type of allergy that is marked by skin, respiratory or gastrointestinal reactions to wheat allergens, but is not necessarily caused by gluten. According to the American College of Allergy, Asthma and Immunology, 65 percent of children with a wheat allergy outgrow it by age 12.

Recently, scientists have become aware of another potential form of intolerance called non-celiac gluten sensitivity (NCGS). After consuming gluten, patients with gluten sensitivity may experience many celiac disease symptoms, such as diarrhea, fatigue and joint pain, but don't appear to have damaged intestines. These symptoms can be due to poor digestion or a placebo effect. According to a 2015 study, NCGS appears to be more common in females and young to middle-age adults. The study also questions what percentage of the population actually has NCGS, as many patients appear to diagnose and treat themselves with a gluten-free diet without consulting their doctor.
The effects of going gluten-free

In cases of gluten intolerance, doctors typically recommend a gluten-free diet. Patients must avoid eating any foods and ingredients that contains gluten, including bread, beer, French fries, pasta, salad dressing, soy sauce and even some soups (unless otherwise marked as "gluten-free"). According to the U.S. Food and Drug Administration, food products must contain less than 20 ppm of gluten in order to be labeled gluten-free.

In recent years, many people without gluten intolerance have taken up gluten-free diets. In fact, according to the Mayo Clinic, 80 percent of people on gluten-free diets do not have a celiac disease diagnosis. Experts worry, however, that going on these diets without explicitly needing to could be detrimental to a person's health, as gluten-free foods are often nutrient-deficient. Dr. Refaat Hegazi, medical director for Abbott's Adult Nutrition, says that going gluten-free can affect the body in many ways.

First, it can affect weight loss. Food restrictions associated with a gluten-free lifestyle can help some lose weight, especially when starches are replaced by healthier options, like quinoa, which doesn't contain gluten. "But it can also backfire – consumption of too much "healthier" gluten-free food can cause weight gain," said Hegazi. Food manufacturers often include additional fat or sugar to make gluten-free products tastier, increasing the product's calorie count and sometimes deceiving those using the diet to control their waistline.

Second, going gluten-free can cause nutrient deficiencies. Many whole grains are rich in vitamins and minerals, like vitamins B and D, iron and fiber. "Whether you need to be gluten-free as prescribed by a doctor, or you are choosing to cut back for personal reasons, a gluten-free diet is doable if followed carefully," said Hegazi.

Third, some research suggests that a gluten-free diet may also affect cognitive function. Because gluten and carbs go hand-in-hand, going gluten-free can also mean cutting carbs. One study, which has generated a lot of discussion, suggests that elevated blood sugar levels may negatively impact brain structure and has been linked to cognitive decline and the development of Alzheimer's disease. "In addition, studies suggest that high carbohydrate intake is linked to elevated blood glucose levels and inflammation, as well. So, cutting gluten and carbs from your personal menu can support cognition as you age. However, more research must be done to truly understand the impact of gluten on your brain," said Hegazi.

Fourth, going gluten-free can improve digestion, reducing bloating and diarrhea, among other symptoms, that are often associated with the sensitivity. Improved digestion associated with a gluten-free lifestyle may also relieve symptoms associated with other intestinal disorders like lactose intolerance.


https://www.livescience.com/53265-what-is-gluten.html




Itadakimasu. Itadakimasu is a common Japanese phrase used before eating a meal. Literally, it means "I humbly receive" and is often used to thank someone for the meal.

Thus, "each rice grain has a soul and that rice is alive in the hull"; rice represents "the nigitama (the peaceful/positive power of the deity)" (p. 55).

Review of Rice as Self: Japanese Identities Through Time ...
www.academicroom.com › Social Sciences › Anthropology › Book reviews
Dec 27, 2012 - Thus, "each rice grain has a soul and that rice is alive in the hull"; rice represents "the nigitama (the peaceful/positive power of the deity)" (p. 55).




In the past decade, awareness of the potential harmful effects of gluten has risen exponentially within the medical community and general public. An increasing number of healthcare practitioners are recognizing that celiac disease is just one extreme manifestation of gluten sensitivity and that many other patients may unknowingly be suffering from non-celiac gluten sensitivity (NCGS).

While non-celiac gluten sensitivity is most often associated with digestive system symptoms, it turns out that this disorder may have equally detrimental effects on the brain. Read on to learn about the relationship between non-celiac gluten sensitivity and the brain and how treatment of this condition may successfully reverse mental health disorders and neurodegenerative disease.

Non-celiac gluten sensitivity (NCGS) is a chronic gastrointestinal disorder distinct from celiac disease, in which individuals experience a wide array of symptoms upon eating gluten. While celiac disease was long considered to be the only legitimate manifestation of gluten sensitivity, research indicates that the spectrum of gluten sensitivity is much broader than originally suspected.

The term NCGS is used to designate other forms of gluten sensitivity along this spectrum. As in celiac disease, NCGS stimulates the immune system; however, NCGS has been found to stimulate innate immune activity, whereas celiac disease activates both the innate and adaptive immune systems.

In addition, NCGS increases CD-associated antibodies but does not cause atrophy of the intestinal villi. (8) Symptoms of NCGS improve or disappear when gluten is removed from the diet and recur if gluten is reintroduced. The diagnostic criteria for NCGS are as follows:

   
Ingestion of gluten elicits rapid occurrence of intestinal and extraintestinal symptoms
   
Symptoms disappear when gluten is removed from the diet and recur if gluten is reintroduced
   
Wheat allergy has been ruled out
   
Specific markers of celiac disease have been ruled out
   
Intestinal mucosa is normal (no villous atrophy)
   
Antigliadin antibodies (primarily IgG) may be positive (50 percent of NCGS patients are positive)
   
HLA-DQ2 and/or HLA-DQ8 may be positive (40 percent of NCGS patients are positive)


Research estimates that approximately 18 million Americans have gluten sensitivity, a figure that is six times greater than the number of Americans who have celiac disease. (9) Despite the wealth of scientific evidence on this topic, and the astonishing numbers of people who may be affected by NCGS, there is a general lack of physician awareness of symptoms, related disorders, and testing for NCGS, and this condition remains largely undiagnosed and untreated.

While gluten sensitivity is perhaps the most frequently cited non-celiac, non-allergic reaction to wheat, it is also possible for people to demonstrate sensitivity to other peptides in wheat such as wheat lectin agglutinin (WGA), alpha-amylase trypsin inhibitors, and gluten exorphins, which are byproducts of gluten digestion that act as opioids. (10, 11, 12) Sensitivity to these peptides can cause symptoms similar to gluten sensitivity. The term used to describe this reactivity is non-celiac wheat sensitivity (NCWS).

Finally, although NCGS and NCWS are more common than is typically acknowledged, there is no evidence to support the claim that gluten causes neurological disease in people who aren’t gluten intolerant. Gluten does not affect all people in the same way. However, in those who are sensitive and susceptible, gluten can have significant effects on neurological health.


Symptoms of NCGS may be limited to GI distress, including diarrhea, constipation, and bloating; however, a growing body of research indicates that, in certain susceptible individuals, NCGS can have a significant impact on the brain. This is cause for concern, given the estimated number of people who may have undiagnosed NCGS and the dramatically rising numbers of people experiencing mental health disorders and neurodegenerative disease.

NCGS appears to affect the brain by altering activity along the gut–brain axis, which is the bidirectional communication system between the enteric nervous system in the gut and the central nervous system in the brain and spinal cord. The gut–brain axis links gut function with emotional and cognitive centers in the brain. (13) Inputs that affect gut health, such as diet and the composition of the microbiome, ultimately affect brain function. Non-celiac gluten sensitivity incites inflammation in the gut and, through the gut–brain axis, can cause inflammation and dysfunction in the brain.


In NCGS, gluten-triggered inflammation in the gut can instigate inflammation in the brain, referred to as neuroinflammation. Neuroinflammation has been found to play a central, triggering role in brain-related disease. In NCGS, there is a series of steps in the process that ultimately culminates in neuroinflammation and brain changes.

Consumption of gluten triggers dysbiosis and gut inflammation and increases the permeability of the intestinal barrier.
   
Increased intestinal permeability allows lipopolysaccharides (LPSs) produced by gut bacteria to leak out of the intestine and into the systemic circulation. Leaked LPSs trigger the immune system to release pro-inflammatory cytokines.
   
LPSs and pro-inflammatory cytokines in the circulation cause toxins to accumulate in the blood stream, inciting systemic inflammation.
   
When systemic inflammation reaches the brain, it creates neuroinflammation.
   
Neuroinflammation leads to brain dysfunction, cognitive impairment, and an increased vulnerability to neurodegenerative disease.

Neuroinflammation has been associated with depression and anxiety, (14) bipolar disorder, (15, 16) schizophrenia, (17) ADHD, (18) and an increased vulnerability to neurodegenerative diseases (19). Therefore, NCGS may be an underlying cause of neuroinflammation, gradually altering the normal, healthy functioning of the brain and leading to manifestations of mental health problems and neurological disease.

Non-celiac gluten sensitivity has been linked to both depression and anxiety. In NCGS, gluten may lead to depressive symptoms by inducing abnormalities in serotonin production and causing changes in the gut microbiota.

While there is limited research about the effects of a gluten-free diet on anxiety and depression in patients with NCGS, a longitudinal study of celiac disease patients found that a one-year-long trial of a gluten-free diet significantly improved anxiety symptoms. In a small case study of patients diagnosed with celiac disease in adulthood who had previously been unsuccessful with antidepressant therapies, a gluten-free diet was found to quickly improve depressive symptoms.

Bipolar disorder, a mental health disorder characterized by periods of alternating elation and depression, as well as fluctuations in energy, is notorious for being resistant to conventional pharmaceutical treatment. Research has demonstrated that neuroinflammation is a common denominator in patients with bipolar disorder.

A growing body of evidence indicates that gluten sensitivity may be a key instigator of neuroinflammation in bipolar individuals. Several studies have found that individuals with bipolar disorder demonstrate significantly increased levels of IgG antibodies to gliadin in their blood, but not other markers of celiac disease, suggesting the presence of non-celiac gluten sensitivity.

In the medical community, the prevailing belief regarding schizophrenia is that it is a chronic, incurable disorder that can only be managed with a cocktail of pharmaceutical drugs. However, under-the-radar scientific evidence has been around for years indicating that gluten sensitivity may play a major role in the pathogenesis of schizophrenia.

As early as the 1950s, researchers were examining the link between gluten sensitivity and schizophrenia; several studies found that schizophrenics experienced significant symptomatic improvement upon commencement of a gluten-free diet. (29, 30, 31, 32) More recently, a number of studies have demonstrated that individuals with recent-onset psychosis and multi-episode schizophrenia have increased IgG and IgA antibodies to gliadin, suggesting the presence of non-celiac gluten sensitivity. (33, 34) The mechanism by which gluten sensitivity induces symptoms of schizophrenia is through induction of inflammation in both the gut and brain, via the gut–brain axis.

Autism may be part of the gluten-sensitivity spectrum. While research does not implicate gluten as the sole cause of autism, non-celiac gluten sensitivity appears to play a role in the gut–brain axis dysfunction characteristic of autism. It is hypothesized that the opioid-like peptides formed from the incomplete breakdown of gluten leak out of the intestine, enter the systemic circulation, and cross the blood–brain barrier, detrimentally affecting neurotransmission and causing alterations in behavior. Children with autism have been found to have significantly increased levels of IgG antibodies to gliadin, and a gluten-free diet may produce a positive change in autistic behaviors.

Non-celiac gluten sensitivity may also contribute to behavioral changes characteristic of attention-deficit/hyperactivity disorder. A six-month gluten-free diet has been reported to improve symptoms in patients with ADHD.

Through its effects on the gut–brain axis, ingestion of gluten may also predispose NCGS individuals to cognitive decline and an increased vulnerability to neurodegenerative diseases such as Alzheimer’s disease and Parkinson’s disease. (41) The systemic inflammation characteristic of non-celiac gluten sensitivity may promote the deposition of amyloid plaques and neurofibrillary tangles, phenomena characteristic of Alzheimer’s disease. (42) In addition, a recent study has concluded that intestinal dysfunction represents one of the earliest manifestations of Parkinson’s disease pathology; thus, the disease originates in the intestine and appears to spread to the brain via the gut–brain axis.

To alter the progression of mental health disorders and neurodegenerative disease precipitated by non-celiac gluten sensitivity, the health of the gut–brain axis must be restored. This can be accomplished by eating a gluten-free diet, restoring the health of the microbiome, reducing systemic inflammation, and rehabilitating the gut–brain axis through vagus nerve stimulation.

The fundamental basis of treatment for non-celiac gluten sensitivity is removal of gluten from the diet. Research indicates that when gluten is removed from the diets of individuals with NCGS, this can result in a complete resolution of symptoms. (44)  A nutrient-dense diet that contains plentiful vegetables; some fruit; high-quality sources of animal protein; a healthy balance of fats, nuts, and seeds; and perhaps some gluten-free grains is a great framework for a balanced gluten-free diet.

Restoration of the microbiome is crucial in the treatment of NCGS, as long-term ingestion of gluten in individuals with NCGS can result in significant dysbiosis. Research indicates that probiotics such as Bifidobacteria and Lactobacilli, combined with prebiotics such as FOS and inulin, may help reduce neuroinflammation in NCGS by restoring a normal microbial balance.

Another aspect of NCGS that must be addressed is oxidative damage and antioxidant depletion. Eating an anti-inflammatory gluten-free diet is key for reducing gut and brain inflammation. However, repletion of antioxidants is also crucial. This can be done by consuming antioxidant-rich foods, which come with a “full package” of beneficial compounds that benefit our health, as well as by supplementing with certain targeted nutrients such as ubiquinone and acetyl-L-carnitine, which have been found to protect the brain against oxidative damage.

The vagus nerve is a cranial nerve that links the brain to the intestine, as well as to several other key visceral organs, and is a critical component of the gut–brain axis. Two types of signals travel along the vagus nerve: afferent signals, which convey information from the gut to the brain, and efferent signals, which transport information from the brain to the gut. The vagus nerve mediates activity of the parasympathetic nervous system, the division of the nervous system responsible for “rest and digest” functions. Stimulation of the vagus nerve has been shown to reduce the body’s response to stress, decrease heart rate and blood pressure, stimulate digestion, reduce inflammation, and change the function of certain parts of the brain. (48)

Vagus nerve stimulation sends a mild pulse of electrical energy through the vagus nerve, thus activating the parasympathetic nervous system. In conventional vagus nerve stimulation, a device is surgically implanted under the skin and connected to the left branch of the vagus nerve using a wire. When activated, the device sends electrical signals along the vagus nerve. Fortunately, this invasive form of vagus nerve stimulation is no longer a necessity, as there are now a handful of noninvasive vagus nerve stimulation devices available. While not yet mainstream in the United States, these noninvasive devices have been approved in Europe for treating epilepsy, depression, and pain.

Vagus nerve stimulation may be useful for healing the gut–brain axis in non-celiac gluten sensitivity, due to its ability to downregulate stress and the inflammatory response and upregulate healing processes. Vagus nerve stimulation attenuates injury to the gut induced by lipopolysaccharides and repairs tight junctions between intestinal epithelial cells. (49) By reversing dysbiosis and sealing up the gut, systemic inflammation is reduced, and this in turn reduces neuroinflammation induced by gluten sensitivity. Vagus nerve stimulation has also been found to be effective in the treatment of depression and bipolar disorder, and emerging research suggests it may also benefit individuals with schizophrenia, autism, and Alzheimer’s disease (50, 51, 52, 53, 54); this evidence further confirms the potential of vagus nerve stimulation to repair both ends of the gut–brain axis—the intestine and the brain.

I own 5 group homes for adults with mental illness. I am toying with the idea of going gluten free in all of the homes if I can detect that the majority of these patients have NCGS. What would be the easiest way to test Medicaid clients?

Don’t know about the Medicaid part, but if you figure it out, would you consider leaving 2 out of 5 on their current plan for 6 mos, trying it at the other 3 then swapping to see if there are significant impacts? I understand there are major ethical considerations, permission, release issues, etc. but my guess is you’d see significant health improvements in all areas, then could implement long-term at all 5.
      
Cutting out grains, sugars & starches made such a huge difference with my ADD issues. Never formally diagnosed, but being able to focus & stay on task, have energy & think clearly have made my life over the past couple of years completely different. I hope you can offer that chance to your residents!

Love all the stuff you post! What really got me to understand the damaging role of gluten for some people, was a very clear connection between audio and visual halluciantions due to gluten in a close family member. Tested for CD negative, but 6 weeks strictly gluten and dairy free, plus gut repair protocol led to complete end to the voices and the visual hallucinations and no more anxiety. The anxiety levels had reached such a level that the young person was almost at the point of refusing to go to school. Going GF was like a black cloud lifting of the whole family! GP of course looked totally blank which is the same as thinking you are bonkers!

Chris, thank you for being in the world! A chiropractor empowered me to give up wheat and gluten products nearly five years ago. Initially this was considered to be a big ask but over time I see how important this message was. I feel so relaxed now, even in the face of adversity, and experience a wellness that is indescribable. I not only gave up gluten products but learned how to nourish the Paleo way. Today I am so grateful to people like you, dear Chris for the invaluable and constant information about good health. I am 71 going on 35! Best wishes, Jennifer.

I began having inflammatory bowel symptoms when I was in nursing school. At that time I was vaccinated, I smoked cigarettes heavily and I worked nights full time. Along with those symptoms, I lost my ability to communicate effectively, understand others, and look people in the eye! I didn’t realize it was happening at the time, looking back it is much more clear. I was extremely ill, thinking I had crohns disease but my endoscopy showed nothing. My GI and psychological symptoms like insomnia, anxiety, depression and even delusions were occurring with a strange regularity, at the same times every day. It was a wheat allergy confirmed by blood test. I think I became allergic to wheat and autistic as a result of the vaccines in conjunction with my poor lifestyle habits. Now when I accidentally consume wheat I feel very anxious and depressed, even confused and distressed. I feel that when I consume wheat I am attacking my brain and thyroid, which swells up. Sometimes i have signs of kidney or liver damage as well. I definitely think I am both allergic to wheat and have ncgs. I am worried about neurodegenerative disease.

I perfectly agree that it depends on personal tolerance. However, latest studies by Hollon, Fasano e co. demonstrated that gluten triggers leaky gut in everyone, with less pronunciated expression in the “healthy” group that show an increase of antinflammatory IL-10.

At this point, in these subjects, we shift the focus from “gluten sensitivity” to how people’s immune system can handle chronic endotoxemia provoked by leaky gut.

The main question is:”why should I be eating gluten containing food even if I don’t experience immediate discomfort or harmful effects”. Given that gluten may cause a huge array of problems and you may not be able to recognize them until you wake up one day with a disease, and given that gluten containing food is a poorly nutrient stuff, usually processed food that brings a hubris of other problems, and given that we had been living well for thousands years without it, the former question is more than legitimate in my opinion. Why don’t we focus on a whole food nutrient dense diet instead of searching for excuses to eat junk food?

This is an area of great interest for me. I have been looking into all things vagus for both my mother who has Parkinson’s/Bi-Polar and my son who has Autism associated anxiety. Genetics + Epigenetics = YIKES!

Most of the information on vagus nerve stimulation in the US comes from sources who do the surgical implants. The device from Cerbomed is only available in Europe at present. The Nervana device is available in the US, however it is only marketed for its calming properties on the CNS. It would be interesting to hear your opinion about the Nervana device if you have one. Is it possible it may have other healing effects as well? In the meantime I guess we will all have to just keep meditating, doing heart math, gargling and singing loud to tone up our vagus!

A big shout out to Chris. I am so grateful for all of the amazing work you do and share through your social media and trainings. You are a trailblazing pioneer and true inspiration for people to “take back their health”. I have learned so much from your work and the work of others in the functional medicine space. I finally know what I want to be when I grow up!

You can elicit the vagus nerve by activating the gag reflex, strong gargling or singing very loud.

I went gluten free to try to stop migraines. I have been off dairy for 30 years because of migraines. It does seem to have a profound effect to be off gluten but sadly it is difficult to eat out and not get any gluten. I have found that I am so sensitive even trace amounts through cross contamination are problematic. I can easily live without gluten, I just wish it was easier to avoid.

I started a glutten free diet under medical supervision first in aims to regulate my bowel system and restore the intestinal membrane. The results were amazing as I suffer from essential familiar tremor and the shakes in my hands completely stopped. I am thrilled and so happy with this finding. Hope it works as well for my father and aunt who also have severe tremors in the hands as well. Hope this info helps!

Yoga, meditation, prayer, deep breathing, and guided imagery are just a few ways to access your parasympathetic nervous system w/o external vagus nerve stimulation. Three to five minutes a day is enough to start. I love the guided visualizations & meditations on YouTube by The Honest Guys. Have been using them for years. They have hundreds. Pax.

I think my gluten sensitivity has definitely impacted the efficacy of my Vagus Nerve. I have known that my VN is the reason for a general feeling of numbness in the whole of my upper body. I am on a totally Gluten free diet now (having allowed myself Spelt in the past) and I can already feel a difference in my parasympathetic system which has been “numb” for over 25 years. I can breathe more easily and am starting to feel the sensation of swallowing for the first time.

I lived in France for a year when I was 19 and all my symptoms disappeared, but I was still eating French bread – but no other wheat of any sort. I had no idea about Gluten intolerance at the time, but I think this is very interesting. I also lost a huge amount of unwanted weight during that time, so maybe the French bread wasn’t such an evil Gluten – is that possible!?

This is the first forum I have seen anything written about connecting the Vagus Nerve to Gluten. I think giving up Gluten automatically reverses the damage done to you VN, and anything extra you can do to stimulate is great!

Under my doctor’s recommendation, I am currently undertaking an elimination diet to determine which foods may be causing intestinal issues. After going wheat free for a month, but keeping cheese in my diet, I lost some of the bloating and constipation issues that I’d been having, along with a decrease in joint pain and increased speed of recovery after working out. While these things are unremarkable, I recently tried reintroducing wheat into my diet for a day in the form of pizza. I had several pieces for dinner, two days in a row.

After the first meal, I woke up the next morning with a sore throat, left ear, and left sinuses. After the second meal, I woke up and I thought I was going to die. All of the muscles in my entire body felt stiff, weak, and very sore. This included my joints. I had a headache from the top of my head down the back of my neck. I also had the return of constipation, some flatulence, and a bit of bloating.

The most amazing thing, though, was my altered visual perception and the intense brain fog that I was encountering. It felt like my minds eye was very close to my actual visual perception, and flashes of random visualizations in my brain were visible without focusing the mind’s eye. I also had the odd sensation that my brain was slightly swollen, as if my head was wrapped tightly in a towel.

I slept for a full 24 hours, drinking an abundance of water, and without eating anything substantial, before I started to feel any relief. This is the first time I’ve experienced anything like this in my life after eating anything in particular. It should be noted, that I have also recently started taking Paxil (1 month ago) for IBSc, but haven’t experienced any mind altering effects outside of the first two weeks.

Gluten is a huge problem for so many people, but most people don’t know they have an issue with it. I was one of those people before I went off gluten almost 3 years ago (due to my 2nd child having a true allergy to wheat. I had to take gluten out of my diet as I was breastfeeding him, and like most foods, gluten is transferred through the breastmilk – I didn’t have gluten before/during/after pregnancy with child #3 and can I say it has made an amazing difference to both her health and my health in a variety of ways).

So wow, what a change in me! No more brain fog, no more abdominal bloating, no more horrid negative self-talk headspace thoughts, no more angry mother. Then no more cellulite on my thighs, better bowel function and minimal bodily joint pains! Why didn’t I do this earlier!?!?

So a very resounding YES to gluten affecting my mental health space. I removed all gluten from our house about a month after going gluten-free as the change seemed almost miraculous. And when I unfortunately DO get glutened these days, the physical gut symptoms I can manage.

No, I don’t like the temporary pain and bloating and diarrhoea, but it’s a walk in the park compared to feelings I get in my head…like I want to leave my family, run away, find myself being mean to everyone around me, feeling a bit angry and finding myself wanting to withdraw from the world generally; in bad cases I even think suicidal thoughts. I understand about my gluten problem these days, so that helps to a large degree, but an everyday ‘food’ that screws up with people’s headspaces and bodies this much just shouldn’t be on supermarket shelves.
   
I recommend to quite a few of my patients that they should try going GF, but people are so darn LAZY! They don’t want to give up their daily bread for a few weeks to see if it’s perhaps ruining their life?! People’s lack of logic and lack of ability to change is truly astounding.
   
If more people tried going GF, I’m pretty sure more people would end up being permanently GF! Then perhaps we’d have more restaurants/food outlets being truly GF and people like us on this webpage could eat out occasionally without the risk of being glutened, and feel like normal human beings instead of strange, second class citizens…
   
And yes, I’m writing this after I’ve been ‘glutened’ a few days back. Judging by what I have written, can you notice that unhealthy headspace in there…?!

https://kresserinstitute.com/




Titanium dioxide (TiO2) is an insoluble and inactive material that is used as a coloring additive in many foods to make them look pretty and appealing to eat. It is used as a whitening and brightening agent in candies, chewing gum, white sauces and cake icing/frosting, and is used to provide texture to the foods.

Titanium Dioxide is generally recognized as safe (GRAS) by the U.S. Food and Drug Administration (FDA) and they allow food products to contain up to 1% food grade titanium dioxide without having to add it on the ingredient label.

So, you ask, “what is all the fuss about?”  The answer is: Titanium dioxide as a nanoparticle.

The International Organization for Standardization (ISO) defines nanoparticles as particles that have at least one dimension (i.e. length, width or diameter) which is between 1 and 100 nanometers in size and come in a variety of shapes. Interest in nanoparticle analysis has increased steadily in the last few years as uses of engineered nanoparticles are proliferating and their behavior and potential negative effects on the environment and human health are not yet well understood. Regulatory bodies are also investigating the safety of some nanoparticles which are believed to be toxic for human health. Titanium dioxide in the form of a “nanoparticle” may pose a risk as it may pass into the lungs, liver or intestines.  Researchers suggest that some powders can become more toxic in their nanoparticle forms and children are more exposed to titanium dioxide as they indulge in more candies, gums and sweet desserts.

France has taken the lead to move forward with placing a ban on titanium dioxide. As of 2019, no food product can contain titanium dioxide in France. Brunoe Poirson, a junior minister in environmental ministry said, “We want to suspend the use of this substance as a food additive by the end of the year.” Along with banning the substance, France has also asked the European Commission to take similar actions .

Many French sweets manufacturers have already stopped using the food additive ahead of the upcoming ban. Dunkin’ Brands, a U.S. company, has also announced that they will be removing the alleged titanium dioxide nano particle from Dunkin’ Donuts’ powdered sugar donuts. As more companies follow suit in eliminating this nanoparticle, testing will become an integral part of monitoring for titanium dioxide around the world. Is your laboratory ready to monitor for titanium dioxide in foods?

To determine both the size and the composition of the nanoparticles techniques such as scanning electron microscopy with energy dispersive X-ray analysis (SEM-EDX), near infra-red (NIR) and single particle inductively coupled plasma mass spectrometry (spICP-MS) are suitable. If you are particularly interested in metal and metal oxide nanoparticles, such as Au, Ag and TiO2 particles, you can use NIR, SEM-EDX or spICP-MS, but to quantify the nanoparticles you need spICP-MS.

Single particle ICP-MS (spICP-MS) consists of diluting your samples by very large factors so that you can detect individual particles as they go through the plasma. All that’s required is a sensitive, fast scanning quadrupole ICP-MS with high signal to background and either some instrument software or a suitable spreadsheet to process the data to provide nanoparticle size, composition and concentration information. The single particle ICP-MS measurement technique allows analysts to determine the presence of nanoparticles in different food matrices with ease and confidence.


http://analyteguru.com/when-simple-additives-turn-dangerous-the-story-of-titanium-dioxide/




Research linking the use of titanium dioxide as a food additive to gut inflammation and bowel cancer in rats, has prompted the French government to initiate further analysis into the substance.

The findings add a new dimension to the ongoing debate over a French proposal to set a mandatory EU category 1B inhalation carcinogen classification for titanium oxide – something which, if adopted, could have major implications for many downstream sectors.

In its proposal, the French Agency for Food, Environmental and Occupational Health and Safety (Anses) argues for the classification based on lung cancers formed in rats after inhalation. The authors review two oral studies but find that uptake in the gut is “rather limited”, although they concede some titanium dioxide particles may be better absorbed, depending on their size and coating.

Their overall conclusion is that “no concern has been identified after oral exposure”.
New findings

The latest research, conducted by the French National Institute of Agricultural Research (Inra), suggests the situation is more complicated, particularly in relation to gut absorption. The researchers report on short- and long-term exposures of rats to food-grade titanium dioxide at levels similar to those in the human diet.

Food-grade titanium dioxide, also known as E171, is widely used in foods and confectionery as a whitening agent and contains nanoparticles with diameters below 100nm.

The researchers found that the particles crossed the rat gut barrier and reached the liver. They were also found in the lymphoid tissue of the small intestine, where they upset the immune system by altering the number of dendritic cells and triggering imbalances in immune responses.

The researchers say that oral studies have so far mainly used titanium dioxide nanoparticles with a different particle size-range to E171, such as NM-105 on the EU Joint Research Centre database. E171 has primary particles with diameters ranging from 30 to 400nm they say, with only about 36% of particles falling below the 100nm nanomaterial threshold.

They conclude: “The daily consumption of E171-containing food may constitute a persistent source for the systemic passage of titanium dioxide nanomaterials and that particles sequestered into the gut mucosa represent an unexplored topic for in vivo toxicity assessments of food-grade titanium dioxide.”
Regulatory context

The Scientific Panel on Food Additives and Nutrient Sources added to Food, at the European Food Safety Authority, published an opinion on the safety of titanium dioxide as a food additive in September 2016.

The panel concluded that – based on the available data – “absorption of orally administered [titanium dioxide] is extremely low and the low bioavailability of [titanium dioxide] appears to be independent of particle size”. They added that the substance did not “raise a genotoxic concern”.

But after the latest research appeared, the French Ministries for Consumer affairs, Health and Food asked Anses to determine the feasibility of a risk assessment of E171. This will be conducted as part of a broader assessment of the human health risks of nanomaterials in food, launched in October 2016.

Meanwhile, Echa’s Risk Assessment Committee (Rac) is expected to formally discuss the classification proposal in June and produce an opinion by the end of this year. The June discussions will be preceded by a key issues debate, at the committee's meeting in March.

Echa told Chemical Watch that “Rac will take into account all relevant scientific information that is available to the committee,” including information provided in the French authority's proposed classification report, and that it received during the public consultation. Information received after this that is “new and relevant” may also be considered by the committee “on a case-by-case basis”.

Asked whether Rac had a mandate to give an opinion on oral exposure, despite the conclusions in the proposal, the agency said: “Rac may or may not adopt the classification proposed in the French classification report. It will provide an independent scientific opinion, based on all relevant scientific information that is available to the committee.”

Industry groups have strongly opposed the proposal on the basis that the rat data, underpinning the inhalation hazard assessment, are not relevant.

The Titanium Dioxide Manufacturers Association (TDMA) said that “the tests found no consistent pattern”. Furthermore, the protocol could not be “extrapolated to conclude that [titanium dioxide] could cause cancer in humans.

 “In fact, Inra clearly states that its findings cannot be extended to draw conclusions for human health, and that they do not comply with OECD guidelines for the testing of chemicals. Other studies carried out in conformity with OECD guidelines have not shown any adverse effect at doses considerably higher than those used in the Inra study.”


https://chemicalwatch.com/52374/titanium-dioxide-in-food-linked-to-gut-health-effects
 



Tôi sống độc lập từ thủa bé. Ấy là tục lệ lâu đời trong họ nhà dế chúng tôi. Vả lại, mẹ thường bảo chúng tôi rằng: “Phải như thế để  các con biết kiếm ăn một mình cho quen đi. Con cái mà cứ nhong nhong ăn bám vào bố mẹ thì chỉ sinh ra tính ỷ lại, xấu lắm, rồi ra  đời không làm nên trò trống gì đâu”. Bởi thế, lứa sinh nào cũng vậy, đẻ xong là bố mẹ thu xếp cho con cái ra ở riêng.

Lứa sinh ấy,  chúng tôi có cả thảy ba anh em. Ba anh em chúng tôi chỉ ở với mẹ ba hôm. Tới hôm thứ ba, mẹ đi trước, ba đứa tôi tấp tểnh, khấp  khởi, nửa lo nửa vui theo sau. Mẹ dẫn chúng tôi đi và mẹ đem đặt mỗi đứa vào một cái hang đất ở bờ ruộng phía bên kia, chỗ trông  ra đầm nước mà không biết mẹ đã chịu khó đào bới, be đắp tinh tươm thành hang, thành nhà cho chúng tôi từ bao giờ. Tôi là em út,  bé nhất nên được mẹ tôi sau khi dắt vào hang, lại bỏ theo một ít ngọn cỏ non trước cửa, để tôi nếu có bỡ ngỡ, thì đã có ít thức ăn  sẵn trong vài ngày.

Rồi mẹ tôi trở về

Tôi cũng không buồn. Trái lại, còn thấy làm khoan khoái vì được ở một mình nơi thoáng đãng, mát mẻ. Tôi vừa thầm cảm ơn mẹ, vừa sạo  sục thăm tất cả các hang mẹ đưa đến ở. Khi đã xem xét cẩn thận rồi, tôi ra đứng ở ngoài cửa và ngửng mặt lên trời. Qua những ngọn cỏ  ấu nhọn và sắc, tôi thấy màu trời trong xanh. Tôi dọn giọng, vỗ đôi cánh nhỏ tới nách, rồi cao hứng gáy lên mấy tiếng rõ to.

Từ đây, tôi bắt đầu vào cuộc đời của tôi. Cho dù tôi sẽ sung sướng hay khổ sở, cái đó tùy ở tính tình tôi khôn ngoan hay đần độn.  Song tôi chưa cần biết đến thế, tính đến thế. Mà hãy lấy sự được ung dung độc lập một mình là điều thích lắm rồi….

Ngày nào cũng vậy, suốt buổi, tôi chui vào trong cùng hang, hì hục đào đất để khoét một cái ổ lớn, làm thành cái giường ngủ sang  trọng. Rồi cũng biết lo xa như các cụ già trong họ dế, tôi đào hang sâu sang hai ngả làm những con đường tắt, những cửa sau, những  ngách thượng, phòng khi gặp nguy hiểm, có thể thoát thân ra lối khác được. Chập tối, tôi tạm nghỉ tay và ra đứng ngoài cửa, họp  cùng anh chị em hàng xóm quanh bờ ruộng, vừa gảy đàn vừa hát một bài hát hoàng hôn chào tạm biệt ông mặt trời. Khi đêm đã xuống  hẳn, cả xóm chúng tôi, các bô lão dế lụ khụ già cốc đế cũng bỗng nhiên vui tính, ai nấy ra khỏi hang, đến tụ hội thật đông tận giữa  bãi trong đêm tối mát lạnh, cùng uống sương đọng, ăn cỏ ướt và những gã tài hoa thì gảy đàn thổi sáo, cùng nhau ca hát, nhảy múa  linh đình đến tận sáng bạch, lúc ông mặt trời quen thuộc lại nghiêm trang ló lên đằng đông mới tan cuộc ai về nhà nấy.

Ngày nào, đêm nào, sớm và chiều nào cũng ngần ấy thứ việc, thứ chơi. Kể đời mà được như thế cũng khá an nhàn, nhưng mới đầu còn  thấy hay hay, về sau cũng nhàm dần.

Bởi tôi ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực nên tôi chóng lớn lắm. Chẳng bao lâu tôi đã trở thành một chàng dế thanh niên  cường tráng. Ðôi càng tôi mẫm bóng. Những cái vuốt ở chân, ở khoeo cứ cứng dần và nhọn hoắt. Thỉnh thoảng, muốn thử sự lợi hại của  những chiếc vuốt, tôi co cẳng lên, đạp phanh phách vào các ngọn cỏ. Những ngọn cỏ gãy rạp, y như có nhát dao vừa lia qua. Ðôi cánh  tôi, trước kia ngắn hủn hoẳn bây giờ thành cái áo dài kín xuống tận chấm đuôi. Mỗi khi tôi vũ lên, đã nghe tiếng phành phạch giòn  giã. Lúc tôi đi bách bộ thì cả người tôi rung rinh một màu nâu bóng mỡ soi gương được và rất ưa nhìn. Hai cái răng đen nhánh lúc  nào cũng nhai ngoàm ngoạp như hai lưỡi liềm máy làm việc. Sợi râu tôi dài và uốn cong một vẻ rất đỗi hùng dũng. Tôi lấy làm hãnh  diện với bà con vì cặp râu ấy lắm. Cứ chốc chốc tôi lại trịnh trọng và khoan thai đưa cả hai chân lên vuốt râu.

Tôi đi đứng oai vệ. Mỗi bước đi, tôi làm điệu dún dẩy cá khoeo chân, rung lên rung xuống hai chiếc râu. Cho ra kiểu cách con nhà  võ. Tôi tợn lắm. Dám cà khịa với tất cả mọi bà con trong xóm. Khi tôi to tiếng thì ai cũng nhịn, không ai đáp lại. Bởi vì quanh  quẩn ai cũng quen mình cả. Không nói, có lẽ họ nể hơn là sợ. Nhưng tôi lại tưởng thế là không ai dám ho he. ấy vậy, tôi cho tôi  giỏi. Những gã xốc nổi thường làm cử chỉ ngông cuồng là tài cao. Tôi quát mấy chị Cào Cào ngụ ngoài đầu bờ khiến mỗi lần thấy tôi đi  qua, các chị phải núp khuôn mặt trái xoan dưới nhánh cỏ, chỉ dám đưa mắt lên nhìn trộm. Thỉnh thoảng, tôi ngứa chân đá một cái,  ghẹo anh Gọng Vó lấm láp vừa ngơ ngác dưới đầm lên. Tôi càng tưởng tôi là tay ghê gớm, có thể sắp đứng đầu thiên hạ rồi.

Chao ôi, có biết đâu rằng: hung hăng hống hách láo chỉ tôi đem thân mà trả nợ những cử chỉ ngu dại của mình thôi. Tôi đã phải trải  cảnh như thế. Thoát nạn rồi mà còn ân hận quá, ân hận mãi. Thế mới biết, nếu đã trót không suy tính, lỡ xảy ra những việc dại dột,  dù về sau có hối cũng không thể làm lại được.

Câu chuyện ân hận đầu tiên mà tôi ghi nhớ suốt đời

Bên hàng xóm tôi có cái hang của Dế Choắt. Dế Choắt là tên tôi đặt cho nó một cách chế diễu và trịch thượng thế. Choắt nọ cũng chắc  trạc tuổi tôi. Nhưng vì Choắt bẩm sinh yếu đuối nên tôi coi thường và gã cũng sợ tôi lắm. Cái chàng Dế Choắt, người gày gò và dài  lêu nghêu như một gã nghiện thuốc phiện. Ðã thanh niên rồi mà cánh chỉ ngắn ngủn đến giữa lưng, hở cả hai mạng sườn như người cởi  trần mặc áo gi-lê. Ðôi càng bè bè, nặng nề trông đến xấu. Râu ria gì mà cụt có một mẩu, mà mặt mũi lúc nào cũng ngẩn ngẩn ngơ ngơ.  Ðã vậy tính nết lại ăn sổi, ở thì ( thật chỉ vì ốm đau luôn luôn không làm được ) một cái hang ở cũng chỉ bới nông sát mặt đất,  không biết đào sâu rồi khoét ra nhiều ngách như hang tôi.

Một hôm tôi sang chơi, thấy trong nhà luộm thuộm, bề bộn, tôi bảo:

– Sao chú mày sinh sống cẩu thả quá như thế! Nhà cửa đâu mà tuềnh toàng. Ngộ có kẻ nào đến phá thì thật chú chết ngay đuôi! Này  thử xem: khi chú chui vào tổ lưng chú phải lồm cồm đụng sát lên tận mặt đất, làm cho ai trên về cỏ nhìn sang cũng biết chú đương  đi đứng chỗ nào trong tổ. Phỏng thử có thằng chim Cắt nó nhòm thấy, nó tưởng mồi, nó mổ một phát, nhất định trúng giữa lưng chú,  thì chú có mà đi đời! Ôi thôi, chú mày ơi! Chú mày có lớn mà chẳng có khôn.

Ngẫm ra thì tôi chỉ nói lấy sướng miệng thôi. Còn Dế Choắt than thở thế nào, tôi cũng không để tai. Hồi ấy tôi có tính tự đắc, cứ  miệng mình nói tai mình nghe chứ không biết nghe ai, thậm chí cũng chẳng để ý có ai nghe mình không.

Dế Choắt trả lời tôi bằng một giọng rất buồn rầu:

– Thưa anh, em cũng muốn khôn, nhưng không không được, đụng đến việc là em thở rồi, không còn hơi sức đâu mà đào bới nữa. Lắm khi  em cũng nghĩ nỗi nhà cửa thế này là nguy hiểm, nhưng em nghèo sức quá, em đã lo ròng rã hàng mấy tháng nay cũng không biết làm  thế nào. Hay bây giờ em định thế này… Song anh có cho phép nói em mới dám nói…

Rồi dế choắt loanh quanh, băn khoăn. Tôi phải bảo:

– Ðược, chú mình cứ nói thẳng thừng ra nào: Dế choắt nhìn tôi mà rằng:

– Anh đã nghĩ thương em như thế thì hay là anh đào giúp cho em một cái ngách sang bên nhà anh phòng khi tắt lửa tối đèn có đứa  nào đến bắt nạt thì em chạy sang…

Chưa nghe hết câu tôi đã hếch răng, xì một hơi rõ dài rồi, với điệu bộ khinh khỉnh, tôi mắng:

– Hức! Thông ngách sang nhà ta? Dễ nghe nhỉ! Chú mày hôi như cú mèo thế này, ta làm sao chịu được. Thôi im cái điệu hát mưa dầm  sụt sùi ấy đi. Ðào tổ nông thì cho chết!

Tôi về không một chút bận tâm.

Một buổi chiều, tôi ra đứng cửa hang như mọi khi, xem hoàng hôn xuống.

Mấy hôm nọ, trời mưa lớn, trên những hồ ao quanh bãi trước mặt, nước dâng trắng mênh mông. Nước đầy và nước mới thì cua cá cũng tấo  nập xuôi ngược, thế là bao nhiêu cò, sếu, vạc, cốc, le le, sâm cầm, vịt trời, bồ nông, mòng, két ở các bãi sông xơ xác tận đâu  cũng bay cả về vùng nước mới để kiếm mồi. Suốt ngày họ cãi cọ om bốn góc đầm, có khi chỉ vì tranh một mồi tép, có những anh cò vêu  vao ngày ngày bì bõm lội bùn tím cả chân mà vẫn hếch mỏ, chẳng được miếng nào. Khổ quá, những kẻ yếu đuối, vật lộn cật lực thế mà  cũng không sống nổi. Tôi đứng trong bóng nắng chiều tỏa xuống ánh nước cửa hang mà suy nghĩ việc đời như thế.

Bỗng thấy chị Cốc từ mặt nước bay lên, đến đậu gần hang tôi, cách có mấy bước. Chừng rớ được món nào, vừa chén xong, chị tìm đến đứng  chỗ mát rỉa lông, rỉa cánh và chùi mép.

Tính tôi hay nghịch ranh. Chẳng bận đến tôi, tôi cũng nghĩ mưu trêu chị Cốc. Tôi cất tiếng gọi Dế Choắt. Nghe tiếng thưa, tôi hỏi:

– Chú mình có muốn cùng tớ đùa vui không?

– Ðùa trò gì? Em đương lên cơn hen đây. Hừ hừ…

– Ðùa chơi một tí.

– Hừ hừ… cái gì thế?

– Con mụ Cốc kia kìa.

Dế Choắt ra cửa, hé mắt nhìn chị Cốc. Rồi hỏi tôi:

– Chị Cốc béo xù đứng trước cửa nhà ta ấy hả?

– ừ.

– Thôi thôi… hừ hừ… Em xin vái cả sáu tay. Anh đừng trêu vào… Anh phải sợ…

Tôi quắc mắt:

– Sợ gì? Mày bảo tao sợ cái gì? Mày bảo tao còn biết sợ ai hơn tao nữa?

– Thưa anh, thế thì… hừ hừ…em xin sợ. Mời anh cứ đùa một mình thôi. Tôi lại mắng Dế Choắt và bảo:

– Giương mắt ra xem tao trêu con mụ Cốc đây này.

Tôi rình đến lúc chị Cốc rỉa cánh quay đầu lại phía cửa tôi tôi, tôi cất giọng véo von:

Cái Cò, cái Vạc, cái Nông

Ba cái cùng béo, vặt lông cái nào?

Vặt lông cái Cốc cho tao

Tao nấu, tao nướng, tao xào, tao ăn.

Chị Cốc nghe tiếng hát từ trong đất văng vẳng lên, không hiểu như thế ào, giật nẩy hai đầu cánh, muốn bay. Ðến khi định thần lại, chị  mới trợn tròn mắt, giương cánh lên như sắp sửa đánh nhau. Chị lò dò về phía cửa hang tôi hỏi:

– Ðứa nào cạnh khoé gì tao thế? Ðứa nào cạnh khoé gì tao thế?

Tôi chui tọt ngay vào hang, lên giường nằm khểnh, bắt chân chữ ngũ. Bụng nghĩ thú vị: “Mày tức thì mày cứ tức, mày ghè vỡ đầu mày  ra cho nhỏ đi, nhỏ đến đâu mày cũng không chui nổi vào tổ tao đâu!”

Một tai hoạ đến mà đứa ích kỷ thì không thể biết trước được. Ðó là, không trông thấy tôi, nhưng chị Cốc đã trông thấy Dế Choắt đang  loay hoay trong cửa hang, chị Cốc liền quát lớn:

– Mày nói gì?

– Lạy chị, em nói gì đâu?

Rồi Dế Choắt lủi vào.

– Chối hả? Chối này! Chối này.

Mỗi câu “chối này” chị Cốc lại giáng một mỏ xuống. Mỏ Cốc như cái dùi sắt, chọc xuyên cả đất. Rúc trong hang mà bị trúng hai mỏ,  Choắt quẹo xương sống lăn ra kêu váng. Núp tận đáy đất mà tôi cũng khiếp, nằm im thít. Nhưng đã hả cơn tức, chị Cốc đứng rỉa lông  cánh một lát nữa rồi lại bay là xuống đầm nước, không chút để ý đến cảnh khổ đau vừa gây ra.

Biết chị Cốc đi rồi, tôi mới mon men bò lên. Trông thấy tôi, Dế Choắt khóc thảm thiết.

Tôi hỏi một câu ngớ ngẩn:

– Sao? Sao?

Choắt không dậy được nữa, nằm thoi thóp. Thấy thế tôi hốt hoảng quỳ xuống, nâng đầu Choắt lên mà than rằng:

– Nào tôi đâu biết cơ sự lại ra nông nỗi này! Tôi hối lắm. Tôi hối hận lắm! Anh mà chết là chỉ tại cái tội ngông cuồng dại dột của  tôi. Tôi biết làm thế nào bây giờ?

Tôi không ngờ Dế Choắt nói với tôi một câu thế này:

– Thôi, tôi ốm yếu quá rồi, chết cũng được. Nhưng trước khi nhắm mắt, tôi khuyên anh: ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà  không biết nghĩ, sớm muộn rồi cũng mang vạ vào mình đấy.

Thế rồi Dế Choắt tắt thở. Tôi thương lắm. Vừa thương vừa ăn năn tội mình. Giá tôi không trêu chị Cốc thì đâu đến nỗi Choắt việc gì.  Cả tôi nữa, nếu không nhanh chân chạy vào hang thì tôi cũng chết toi rồi.

Tôi đem xác Dế Choắt đến chôn vào một vùng cỏ bùm tum. Tôi đắp thành nấm mộ to. Tôi đứng lặng giờ lâu, nghĩ về bài học đường đời  đầu tiên.

-----------------

Tôi tập suy nghĩ về mọi hành động của mình. Lòng đoan với lòng rằng từ đây phải biết phân biệt hành vi lố lỉnh với những việc làm  có suy nghĩ. Như thế, tôi bắt đầu sống bình tĩnh. Nhưng những ngày phẳng lặng đó cũng chỉ được ít lâu. Bao nhiêu lâu tôi cũng  không nhớ. Rồi tình cờ tôi phải trải qua một cuộc phiêu lưu sóng gió và kỳ lạ.

ấy là vào đầu mùa hè một năm kia. Buổi sáng tôi đang đứng ngoài cửa gặm mấy ngọn cỏ non ăn điểm tâm. Bỗng đằng cuối bãi tiến lại  hai cậu bé con, tay cầm que, tay xách cái ống bơ nước. Thấy bóng người, tôi vội lẩn xuống cỏ, chui nhanh về hang. Bỗng chốc tôi  nghe tiếng chân bước thình thịch loạn trên đầu. Và ríu rít những tiếng nói, tiếng gọi:

– á này. Này!

– Cái gì?

– Chỗ này đích rồi. Ðất đùn mới tinh!

– ờ ờ đúng. Gớm chửa, bao nhiêu đất mới đùn. Lại vết chân cu cậu mới ra vào còn nhẵn thin thín. Bé ơi! Ðưa dao đây để tớ khoét lỗ,  đằng ấy đi xách nước đi. Nhanh lên.

Lập tức tôi nghe tiếng thọc dao chuyển cả đất và thấy đất rơi lả tả xuống ngay đầu. Biết có biến lớn, tôi vội nhảy lên nấp cao trên  ngách thượng. Ðứng đấy một chốc thì có nước ộc tới. Bọn trẻ đổ nước định lùa tôi ra. Nhưng mỗi đợt nước vào chỉ dâng đúng đến vuốt  chân tôi lại rút xuống. Bởi vì khi bình thời, tôi đã cố ý đào ra nhiều đường ngang. Bây giờ nước vào những không có chỗ đọng được  trong hang mà nước theo ngách thoát cả ra ngoài. Hai đứa trẻ ranh lắm. Chúng không chịu bỏ. Chúng huỳnh huỵch chạy quanh, xem xét  dấu vết các mặt, chúng đoán đích trong tổ này có dế. Nhất cái cậu tên là Nhớn. Mấy lần Bé đổ nước không thấy dế bò ra, đã toan đi,  nhưng Nhớn cứ khăng khăng:

– Tớ cam đoan thế nào cũng phải có. Mà lại dế to hạng nhất cơ. Cái thứ dế cụ nó bạo nước lắm, ngập cả râu trong nước nó cũng vẫn đứng  được, phải ngâm nước đến hàng giờ thì dế cụ mới chịu sặc mà nhoi ra. Bây giờ mình phải tìm cách lấp hết các ngách xung quanh cho  nước đọng lại trong hang, cu cậu tắc thở, thế nào cũng tuồi ra thôi.

Nói như thế là làm y vậy, nghe rợn gáy. Lập tức, tôi thấy hang tối sẫm. Những ngách ngang ngách dọc vào hang tôi đều bị lấp cả. Chỉ  còn mỗi một đường chính để chui ra. Chúng bắt tôi phải xộc ra con đường ấy cho chúng tóm cổ. Bây giờ, nước lùa vào đến đâu, đọng  đến đấy và cứ dâng dần dần… Trước đến lưng, sau lủm cả đầu. Chỉ còn hai cái râu thò lên đụng đậy. Rồi râu cũng ngập nốt. Nhưng tôi  vẫn cố nhịn thở, không chịu ló đầu ra. Tôi nghĩ nước có ngập, nước cũng chỉ ngập một chốc rồi lại thấm sâu vào đất, đất này là đất cát  và tôi nhịn thở được.

Song dù nhờ đất thấm nước khoẻ thế, cũng không phải cách bền vững. Quả nhiên, chẳng mấy chốc, đất cát cũng đã ngấm no nước, không  chịu thấm nữa, vậy là nước lại ứ lên. Tôi lo quá, phen này phải bò ra mất. Ôi thôi, nếu bò ra bây giờ, đời tôi còn gì! Hai đứa trẻ  kia sẽ bắt tôi đem về làm miếng mồi béo cho con gà chọi, con hoạ mi, con sáo mỏ ngà của chúng xơi ngon. Bọn cá chậu chim lồng ấy  mà vớ được món ăn mỡ màng như thằng tôi thế này thì phải biết là thích. Mà cứ gan liền chôn chân ở đây rồi cũng đến chết ngạt, chết  đuối mất. Rồi, tuy không định ra hẳn những mỗi lần nước ộc vào, tôi cứ tự nhiên nhích người ra một mảy, làm như vậy tôi thấy đầu tôi  được thò lên mặt nước. Như thế nghĩa là tôi lại hít được một chút không khí. Có dễ chịu hơn. Từ đấy hễ bọn trẻ đổ nước vào, tôi lại  hơi nhoi ra một tí, một tí mà không cảm thấy mình đương nhoi dần ra. Không may cho tôi biết bao! Tôi không biết rằng cứ như thế,  có được dễ thở, nhưng nguy hiểm là mỗi lần nhấc chân lên, là nhích ra. Thế rồi một lần nước vừa rút xuống khoeo, đột nhiên ở ngoài  cửa hang bọn trẻ trông vào thấy cái đầu của tôi.

– Ðây rồi! Ðầu to gộc, bóng quá!

Tôi rụt ngay vào. Song đã muộn. Họ trông thấy tôi rồi. Ðã trông thấy tất họ phải bắt cho kỳ được. Quả nhiên, nước càng dội vào,  tiếng hò hét càng tợn, có lúc tiếng chân tay vỗ, giậm doạn rung chuyển cả đất bốn bên. Tôi run người lên, tôi bí thở, tôi vùng vẫy  vì bức nước. Rồi trong bụng không định mà chân lại cứ nhấc dần ra. Bỗng nghe một tiếng xoạt ngay sau lưng, như tiếng sét. Quay lại,  một thanh nứa, lại cả mũi dao nữa, đã thục xuống chắn ngang đường vào cuối hang. Thì ra, hai đưa trẻ khôn ngoan, trông mặt nước  động biết tôi đã chui ra đứng cửa tổ. Họ xiên dao xiên nứa xuống chặn lối sau lưng tôi. Nếu trúng thì đứt đôi người! Nhưng tôi chưa  kịp giật mình, đã có cảm giác cái thanh nứa chẹn lưng đương bẩy tôi ra. Hai đứa trẻ, đứa thì đẩy thanh nứa, đứa thì ngồi gõ vào cái  ống bơ đựng nước, mồm kêu thòm thòm giả làm trống ngũ liên doạ nạt, thúc giục váng cả bãi.

Bị hất mạnh, bí quá tôi liền nhẩy ra.

– Anh em ơi! Dế cụ! Dế cụ!

– Ha! Ha! Bắt được dế cụ!

– To bằng bốn thằng ve sầu!

– Dế cụ mà lị!

Nhớn tóm được tôi. Tôi cắn cho cậu bé một miếng vào ngón tay. Nó kêu thét. Tôi bồi cho cái đạp hậu, nó buông rời tôi ra. Ðược dịp,  tôi vội nhảy trốn vào giữa bãi cỏ. Nhưng cả hai đứa trẻ, đứa cầm giỏ, đứa cầm ống bơ, đuổi theo úp tôi. Chỉ loáng mắt, tôi đã nằm  chỏng vó giữa giỏ. Tôi cố cắn nan giỏ mỏng rớt, nhưng chưa nhay được mắt nào, họ đã đem buộc túm cái đít giỏ lại khiến tôi không  nhúc nhích, cựa quậy được nữa. Họ xếp ống bơ xách nước và các đồ chơi lại, ra bờ đầm rửa chân rửa tay và xách tôi theo.

Họ vui vẻ ra về. Chân bước theo nhịp tay múa. Miệng hát ý ơ. Vẻ khoái tỷ lắm. Nằm tròn trong đít giỏ, tôi đưa mắt nhìn lần cuối  cùng phong cảnh nơi tôi ở. Cỏ non xanh rờn, mặt nước bạc mênh mông. Nắng vàng rải trên lá cây, vàng một màu tươi lạ lùng, lòng tôi  đau như cắt. Hai hàng nước mắt tuôn rơi. Dần mỗi bước một xa. Ngoảnh đầu lại không trông thấy nữa, thế là khuất hẳn. Phen này tôi  tất chết.

Hai đứa trẻ đem tôi ra khỏi bãi, qua một quãng đường ngoắt ngoéo bên thành tre rậm rạp, tới một lối nhỏ đi men đến một cái cổng  tán. Nhớn vào nhà cất mọi thứ đồ đạc “đúc” dế, còn Bé thì đặt giỏ xuống. Biết số phận mình sắp được định đoạt, tôi thấy hồi hộp và  lạnh cả sáu gan bàn chân. Sắp làm mồi cho gà, cho chim chăng? Nhưng quanh đây, tôi không nghe tiếng móng chim hoạ mi cào vào  nan lồng, cũng không thấy con gà chọi mặt đỏ tía tai nào. Tôi hơi yên yên.

Nhớn ở trong nhà ra. Bé nói:

– Ðem thằng dế này quẳng ra ao cho “xừ” vịt bầu của chúng mình “xực” một bữa, Nhớn ạ.

Tôi giật mình đánh thót một cái. Nhưng Nhớn xua tay bảo:

– Không! Ðúc được thằng dế cụ thế này hiếm lắm. Dế này dế cụ, gan liền tướng quân đây. Thằng Thịnh hôm nọ cũng có một con dế, nó  khoe dế nó khoẻ nhất, cho đánh nhau, đánh thằng dế nào cũng phải thua. ( Tôi đã hơi nóng gáy và ngứa hết hai cái càng ). Chúng  ta nên bỏ dế cụ này vào lồng, đem sang nhà Thịnh cho đánh nhau với thằng dế ben ấy. Ðể xem a…ha…”thắng bại như hà…” ấy ầy ây…Tùng  xoè… Tùng xoè…

Bé vỗ tay:

– Phải, phải lắm.

ấy thế là tôi không chết. Ðiều may mắn này không lường trước ra được.

Hai cậu bé đem giam tôi vào một cái lồng tre gài then chắc chắn. Tôi đành nằm yên, chờ sự thay đổi nào đó mà tôi lại không thể  tưởng tượng ra trước được. Tôi chỉ biết thế là tôi sắp phải đi đánh nhau. Nhưng cứ nói đến đánh nhau, tôi lại cứ muốn múa chân lên.  Quên cả cái thân tù đáng nhẽ phải tìm cách thế nào cho được tự do. Tâm tính ngông nghênh của tôi muốn hung hăng trở lại như dạo  trước.

Buổi trưa, quả nhiên anh em nhà ấy đem tôi sang cho “giáp chiến” với một cậu dế nhà bên cạnh.

Nhớn dứng ngoài ngõ gọi:

– Thịnh ơi Thịnh!

Thịn từ trong nhà chạy ra.

– Gì thế?

– Dế cụ tao đây. Có giỏi đem dế mày ra chọi nào.

Thịnh cười khanh khách, vẻ coi thường, quay vào, xách lồng dế ra. Cả bọn rủ nhau đến giữa khu vườn lưa thưa những bóng cây nhãn lùn.  Chúng nằm sấp xuống cỏ, lúc nào thích thì cong lên đạp không khí. Chúng giáp hai cánh cửa lồng dế làm một cho thật chắc, như đuôi  toa nọ kề cửa toa kia lúc tàu hoả chạy, rồi mới rút then ra, để hai thằng dế chúng tôi không muốn cũng phải xông sang lồng của  nhau. Chàng dế nọ nhảy tót sang lồng tôi. ái chà, vẻ ta đây. Hắn bé hơn tôi một chút. Nhưng hắn ngạo mạn và xấc xược làm sao! Bé  loắt choắt thế mà đã bắt chước đâu được bộ mặt hờm hợm, khinh khỉnh từ cái dáng chân đi khụng khiệng, vẻ coi thiên hạ như rác.  Thoáng thấy đã lộn tiết. Vừa ngó tôi, hắn vuốt rung hai sợi râu, nói:

– ờ ờ, chú mày đờ mặt ra thế kia thì liệu có mấy hột sức chịu nổi nửa cái đá song phi của ta không?

Rõ chối tai! Tôi đã cáu lắm. Nhưng lạ sao lúc ấy tôi vẫn tỏ ra dịu dàng được. Có lẽ vì lòng quá khinh bỉ.

– Này anh kia! Làm chi mà ầm lên. Ðứa khôn ngoan ở đời thì không nên nói trước. Hắn nhe răng ra, hầm hè:

– Mặc kệ! Có giỏi thì ra đây chơi nhau chứ đứng nói xỏ đấy à?

Máu nóng trong người tôi sôi sùng sục, tưởng nghe tiếng được. Biết quân này không phải quân ăn lời, tôi bèn nhay phắt đến. Chúng  tôi bắt đầu đánh nhau giữa những tiếng cười reo, vỗ tay của ba đứa trẻ. Mới quần thảo vài hiệp, tôi đã rõ sức anh dế lếu láo kia,  chọi với tôi, không được mấy nả sức. Ðúng thế, tôi chỉ thọc mạnh một cái, đạp càng, hắn ngã bổ ngửa ra. Tôi bồi thêm chiếc đá nữa,  hắn ộc máu mồm đen sì, gãy một cẳng, lăn quay. Tôi chẳng thèm đánh thêm, chỉ ghé xuống tận tai hắn, lạnh lùng bảo:

– Cho mày bài học thuộc lòng về sự hống hách nhé! Từ giờ chừa đi con ạ.

Hắn chỉ còn biết có việc run rẩy chắp chân, lạy rối rít. Nhưng nếu từ đấy chàng dế kia có thể biết chừa cái thói ngông nghênh thì  tôi lại ăn phải đũa của hắn. Bệnh ngông nghênh của hắn lây sang tôi. Thế mới kỳ quặc cho tôi.

Làm sao mà tôi đâm đốn kiếp như vậy. Thật tôi không cắt nghĩa được hết cái khúc khuỷu của tính tự kiêu và tự đại. Tôi chỉ biết thế  là những cái hung hăng gàn bướng và lên mặt hão huyền đầu óc tôi chưa gội được sạch hẳn. Khi tôi đá ngã thằng dế kia rồi, mắng nó  rồi thì tôi nghĩ nịnh tôi rằng: “ồ mình giỏi thật. Chỉ gảy khẽ một cái mà thằng cha kia đã ngã lăn chiêng”.

Và chỉ nhờ cái đá xoàng ấy mà trẻ con trong xóm thi nhau đi “đúc” dế, đào dế, săn dế đem về cho chọi với tôi – tôi đã trở nên tay  võ khét tiếng. Phải, dế nào tôi cũng phóng vài cái đạp hậu, cậu ta đã chạy bán xác. Hồi ấy, tôi đương giữa tuổi thanh xuân, sức  lực cường tráng, nhất là thêm cái tính kiêu, tính hợm chẳng coi ai ra gì nên cứ càng làm bộ.

Vì tôi thắng tợn nên hai cậu chủ bé nhỏ của tôi yêu quý tôi lắm. Mỗi bận đá ngã kẻ địch, tôi lại được các cậu ấy tẩm bổ bao nhiêu là  cỏ ấu rất non. Ðêm đến, tôi được các cậu cho lên đứng uống sương trên giàn mồng tơi, nhưng vẫn bị một sợi chỉ buộc vào càng. Tôi có  thể cắn đứt sợi chỉ dễ như chơi, mà tôi không cắn, tôi uống từng giọt sương lóng lánh trên lá mồng tơi rồi ung dung ca hát trong ca  hát trong cảnh trói buộc như thế. Tệ quá nữa, muốn làm, đẹp lòng hai cậu bé, tôi chỉ quanh quẩn cả ngày cạnh cái hộp diêm, buồng  ngủ của tôi, không đi đâu xa một bước. Thỉnh thoảng cao hứng tôi đạp hai càng, cất tiếng gáy riii…riii. Ôi, tôi đã quên cái thân  bị đem làm trò chơi. Mấy lá cỏ non và thói ngông đã khiến tôi đâm ra ngu tối đến thế.

Nhưng đến một ngày kia, tôi phải cảm ơn một sự tình cờ đã đến mở mắt tôi. Tôi vẫn đi đánh nhau thuê mua vui. Tôi vẫn được đem đi  chọi nhau như thế. Ðối thủ của tôi lần này là một anh chàng có bộ cánh chưa kín lưng, người mới dài bằng nửa tôi. Vừa bị đẩy vào đứng  đối diện, anh ta đã nháo nhác kêu tru tréo:

– Em lạy bác, em lạy bác, bác tha cho em. Bác là người lớn, bác đã có răng có càng to rồi, còn em, em vừa ra đời có mấy hôm, mới  hôm qua được mẹ em dắt cho đi ở riêng thôi mà.

Tôi thản nhiên. Tôi xông vào chiến ngay thằng bé. Nó khóc hu hu rồi chạy quanh lồng. Mấy đứa trẻ xem chọi dế cười ha hả. Tôi lại  càng nổi hăng.

---------

Khi đã được thảnh thơi đứng trong bụi dứa xanh mờ, tiếng hò reo của bọn trẻ nghe đã xa lắm, không còn lo ngại gì nữa, tôi mới duỗi  cánh vươn vai thở dài. Tôi gặm vội tí cỏ cho đỡ đói. Mấy bữa nay, quả là tôi cũng vờ ốm thêm để đỡ phải đi chọi nhau, cho nên nhịn  ăn, có mệt mỏi đi thật. No rồi, tôi phủ phục xuống chụm chân, đánh một giấc ngủ ngon.

Lúc tỉnh dậy, xung quanh và đằng xa, chỉ có cái im lặng chập chờn buổi trưa. Lũ trẻ chắc đã về trong xóm. Nghĩ xa, nghĩ gần trong  bụng tôi phân vân. Nửa muốn một phen đi chơi xa lại nửa muốn về thăm nhà. Dẫu sao, trong mấy ngày qua, tôi cũng nảy ra một ý nghĩ  rất đẹp là đã được thấy qua mặt đất này bao la, không phải chỉ có cái bờ ruộng, cái đầm nước của quê mình. Có phải trong cảnh trói  buộc lại hay có những ao ước phóng khoáng chăng? Chỉ biết lũ trẻ kia giam giữ mình, nhưng phong cảnh non nước thì bao giờ cũng chờ  đón và thúc giục ta hãy vui chân lên, hãy cố đi cho khắp thế gian. Ðời trai mà không biết bay nhảy, không biết đó biết đây thì  cuộc sống sẽ nhạt nhẽo lắm.

Sau cùng, tôi quyết định trở lại nhà. Tôi nhớ từ ngày mình bị bắt, mình xa nhà đã lâu, Tôi chắc chắn ngày ấy có khi mẹ tôi lại  thăm hang tôi, thấy giường màn tan tành, hẳn người đã khóc không biết bao nhiêu nước mắt. Nghĩ thế thì tôi nhớ và thương mẹ tôi  lắm. Tôi là con út trong lứa sinh. Mẹ thương tôi, đã cho bao nhiêu cỏ non, lúc đem tôi đến ở hang mới.


Jean Guichard (French pronunciation: ​[ʒɑ̃ ɡiʃaʁ]), born in Paris, on April 28, 1952,[1] is a French photographer known for his images of lighthouses. One series of seven pictures, titled La Jument, is world-famous; taken in 1989, it depicts the French lighthouse "La Jument" in a tempest. In the photograph, a wave is about to engulf the lighthouse as its keeper thinking Guichard's was the rescue helicopter, looks out the open door.  


Tôi trở về quê hương. Tôi cũng tính thêm rằng: sau khi về thăm mẹ, khi mẹ tôi nhìn thấy mặt, mừng tôi còn sống, vẫn khoẻ, người an  tâm rồi, bấy giờ tôi sẽ tính một cuộc du lịch xa xôi.

Tôi rẽ cỏ, tìm lối về…

Ðường về xa lắc xa lơ…

Một hôm, qua một vùng cỏ nước xanh dài, chợt nghe tiếng khóc tỉ tê. Tôi lắng tai, đoán ra tiếng khóc quanh quẩn đâu đây. Vài bước  nữa, tôi gặp chị Nhà Trò ngồi gục đầu bên tảng đá cuội. Chị Nhà Trò bé nhỏ lại gầy gùa, yếu đuối quá, người bự những phấn, như mới  lột. Chị mặc áo thâm dài, đôi chỗ chấm điểm vàng, hai cánh cô nàng mỏng như cánh bướm non, lại ngắn chùn chùn. Hình như cánh yếu  quá, chưa quen mở, mà cho dù có khoẻ cũng chẳng bay được xa. Các chị Nhà Trò vốn họ bướm, cả đời chỉ biết vởn vơ quanh quẩn trong bờ  bụi mà thôi. Nhà Trò đương khóc.

Nghe như có điều gì oan trái chi đây, tôi bèn hỏi:

– Làm sao mà khóc đường khóc chợ thế kia em?

Chị ngẩng đầu lên, nước mắt đầm đìa rồi cúi chào, lễ phép – các cô Nhà Trò bao giờ cũng lịch sự và mềm mại.

– Em chào anh, mời anh ngồi chơi. Tôi nói ngay:

– Có gì mà ngồi! Làm sao khóc nào? Thế là chị ta bù lu bù loa:

– Anh ơi! Anh ơi! Hu…hu…Anh cứu em… Hu…hu

– Ðứa nào? Ðứa nào bắt nạt em?

– Thưa anh, bọn Nhện. Anh cứu… Hu…hu…

Tôi sốt ruột:

– Nhện nào? Sao lại cứ khóc thế? Kể rõ đầu đuôi mới biết làm sao mà cứu được chứ! Nhà Trò kể:

– Năm trước, phải khi trời làm đói kém, mẹ em phải vay lương ăn của Nhện. Sau đấy, không may mẹ em mất đi, còn lại thui thủi có  mình em. Mà em ốm yếu, kiếm bữa cũng chẳng đủ, làm ăn chả ra thế nào, bao năm nghèo túng vẫn hoàn nghèo túng, món nợ cũ chưa trả  được. Nhện cứ nhất định bắt trả nợ. Mấy bận Nhện đã đánh em. Hôm nay bọn Nhện chăng tơ ngang đường đe bắt em, vặt chân, vặn cánh ăn  thịt em.

Tôi xoè hai càng ra, bảo Nhà Trò:

– Em đừng sợ. Hãy trở về cùng với tôi đây. Ðứa độc ác không thể cậy khoẻ ăn hiếp kẻ yếu. Ðời này không phải như thế.

Tôi dắt Nhà Trò đi.

Một quãng, tới chỗ mai phục của bọn Nhện.

Bọn nhện đã công phu chăng bên đường nọ sang bên kia, chằng chịt biết bao nhiêu tơ nhện, trùng trùng điệp điệp, một chú Muỗi Mắt  nhỏ nhất loài muỗi cũng không chui lọt. Lại thêm, sừng sững giữa lối đi, một anh Nhện canh gác. ý hễ thấy bóng Nhà Trò là làm hiệu  cho lũ Nhện nấp hai bên đường kéo ra.

Khi tôi gần tới mạng lưới, nhìn vào các khe đá xung quanh đã thấy lủng củng những nhện là nhện: Nhện mẹ, Nhện con, Nhện già, Nhện  trẻ, Nhện nước, Nhện tường, Nhện võng, Nhện cây, Nhện đá, Nhện ma…đủ họ nhà Nhện. Chúng đứng im như đá, mà coi vẻ hung dữ.

Tôi cất tiếng hỏi lớn:

– Ai đứng chóp bu bọn mày? Ra đây cho tao nói chuyện.

Từ trong hốc đá, một mụ nhện cái to nhất, cong chân nhảy ra, hai bên có hai Nhện vách nhảy kèm. Dáng đây là vị chúa trùm nhà  Nhện. Nom cũng đanh đá, nặc nô lắm. Vậy thì đầu tiên, tôi hãy ra cái oai của tôi. Tôi quay phắt lưng, phóng càng đạp mạnh vào đầu  mụ Nhện cái một đạp. Mụ nọ hoảng hốt, co dúm lại hãi ngay. Rồi thế là mụ cứ rập đầu xuống đất như cái chày giã gạo, tỏ ý hối hận và  sợ hãi một điều gì đó – điều gì đó có lẽ mụ ta cũng chưa biết.


In 1989, in the midst of a raging storm off the Brittany coast, photographer Jean Guichard circled above the French lighthouse of la Jument (Le Phare de La Jument) in a helicopter, camera in hand to capture the tempest. Hearing the helicopter, keeper Theodore Malgorne came out to investigate but retreated quickly as a huge wave crashed into the lighthouse. This dramatic moment was captured by Guichard in a series of photographs. https://thekidshouldseethis.com/post/the-lighthouse-of-la-jument


Tôi thét:

– Cớ sao dám kéo bè kéo cánh ra bắt nạt em Nhà Trò yếu ớt thế kia? Chúng mày có của ăn của để, đứa nào cũng béo múp mông đít cả  lượt như thế kia mà tính đòi nó một tí tẹo nợ đã mấy đời rồi là không được. Ta cấm từ giờ không được đòi nợ Nhà Trò nữa. Nó bé bỏng,  làm chưa đủ nuôi thân, phải thương nó, xuý xoá công nợ cho nó. ở đời, thù hằn, độc ác làm gì. Thử trông đấy, bay bắt nạt nó, nhưng  còn có ta khoẻ hơn, ta mới thử gió mấy cái đá hậu, mà xem ra chúng mày đã thấy đáng nghĩ lắm rồi phải không?

Bọn Nhện núp phía trong cũng dạ vang và lao xao nói “nghe rồi ạ” rối rít khe đá.

Tôi ra lệnh:

– Phá các vòng vây đi. Ðốt hết văn tự đi.

Lũ Nhện nghe ngay lời tôi, Cả họ nhanh nhẹn chạy ngang chạy dọc, phá các dây tơ chăng lưới. Con đường về tổ Nhà Trò trên cành lá  mua có một chiếc hoa tím phút chốc đã qung hẳn. Rồi vô số Nhện nhấp nhô, tung tăng đến, chân nắm chân ả Nhà Trò mà nhảy múa, hát  ầm ĩ rất vui.

Họ nhà Nhện còn định mở tiệc thết tôi. Ðược cái họ nhà Nhện thì lúc nào cũng khéo trữ lắm thức ăn ngon. Nhưng tôi từ chối, nói rằng  phải vội đi. Hẹn dịp khác sẽ qua chơi.

Tôi từ giã bọn Nhện và Nhà Trò. Chị Nhà Trò ôm vai tôi cảm động, không nỡ ly biệt, cứ theo tiễn một quãng đường dài. Còn tôi,  trong lòng hoan hỉ vì đã làm được việc đầu tiên có ích cho đời.

Mấy hôm sau, về tới quê nhà.

Cái hang bỏ hoang của tôi, cỏ và rêu xanh đã kín lối vào. Nhưng đằng cuối bãi, mẹ tôi vẫn mạnh khoẻ. Hai mẹ con gặp nhau, mừng  quá, cứ vừa khóc vừa cười. Tôi kể lại từ đầu chí cuối nhưng ngày qua trong may rủi và thử thách mà bấy lâu tôi trải. Bắt đầu từ  chuyện anh Dế Choắt khốn khổ bên hàng xóm.

Nghe xong, mẹ tôi ôm tôi vào lòng, y như người ôm ẵm khi mới sinh tôi và bảo rằng:

– Con ơi, mẹ mừng cho con đã qua nhiều nỗi hiểm nguy mà trở về. Nhưng mẹ mừng nhất là con đã rèn được tấm lòng chín chắn thật đáng  làm trai. Bây giờ con muốn ở nhà mấy ngày với mẹ, rồi con đi du lịch xa mẹ cũng bằng lòng, mẹ không áy náy gì về con đâu. Thế là  con của mẹ đã lớn rồi. Con đã khôn lớn rồi. Mẹ chẳng phải lo gì nữa.

Mẹ tôi nói thế rồi chan hoà hàng nước mắt sung sướng và cảm động. Tôi nhìn ra cửa hang, nơi mới ngày nào còn trứng nước ở đây và  cũng cảm thấy nay mình khôn lớn.

Tôi ở lại với mẹ:

– Mẹ kính yêu của con! Không bao giờ con quên được lời mẹ. Rồi mai đây con lên đường, con sẽ hết sức tu tỉnh được như mẹ mong ước cho  con của mẹ.

---------------

Bạn đọc hẳn đã biết mục đích tôi về quê chuyến này, vừa thăm mẹ và vừa có ý tìm bạn cùng nhau đi du lịch. Việc hỏi thăm mẹ, thế là  đã xong.

Giờ tôi đi tìm bạn. Ðất này biết mấy ai kẻ tri âm? Tìm bạn đã khó, huống chi lại là sự đánh bạn với nhau trong cuộc lên đường lâu  dài. Lên đường! Lên đường! Mỗi bước chân sẽ thấy một đổi thay. Mỗi sớm mỗi chiều ta lại gặp cảnh vật mới. Lúc nào cũng đi tới một nơi  xa lạ. Không ai có thể mong ước hơn. Mới tưởng đến cũng đủ nao nức, bồi hồi.

Hỡi ôi! Còn chi buồn bằng, tuổi thì trẻ, gân thì cứng, máu thì cuồn cuộn với trái tim và lòng thiết tha mà đành sống theo khuôn  khổ bằng phẳng: ngày hí húi đào bới đất làm tổ, đêm thì đi ăn uống và tụ tập chúng bạn nhảy múa dông dài. Tôi không muốn cho đến  lúc nhắm mắt vẫn phải ân hận chẳng biết là cuối cánh đồng mênh mông kia còn những gì lạ và cuộc đời ở đấy ra sao.

Tôi có hai anh một lứa sinh, và ba anh em tôi đã được mẹ tôi cùng đưa đi ở hang riêng năm trước. Trong cuộc đi tìm bạn, tôi nghĩ  đến ông anh hai tôi đầu tiên.

Tôi đến thăm anh hai tôi.

Thoạt nhìn cửa hang của anh, tôi đã hơi thất vọng. Cửa hang bé và nham nhở, bẩn như lỗ giun đùn, lúc chui vào thì có từng đám rễ  cỏ quệt xuống đầu, y như vào một hang hoang, càng sâu càng ẩm mốc, lạnh tanh.

Trông thấy anh, tôi giật mình. Trong bóng tối âm thầm, tôi phải chú ý mãi mới nhìn thấy và nhận ra được mặt anh. Anh tôi gầy kheo  như đến nỗi tưởng sức tôi mà đá thì chỉ phách một cái cũng đủ khiến anh tôi bắn xa mười lăm trượng.

Nghe tiếng chân tôi bước thình thịch, anh hoảng hốt, luống cuống, bối rối cả càng lẫn râu rồi cứ quanh quẩn chạy vòng tròn, không  biết chạy đi đâu. Tôi phải đánh tiếng mãi, anh mới nhận ra tôi, bấy giờ anh tôi mới yên lòng và đứng im, chỉ còn hơi rung râu.  Dáng chừng tôi khoẻ mạnh, cứng cáp và đen bóng như cột nhà cháy bôi mỡ, anh còn sợ. Thế là đôi râu cứ rung mạnh dần lên. Thật đáng  cười và đáng thương!

Tôi hỏi:

– Anh ơi! Anh ốm hay thế nào mà còm nhỏm vậy? Anh nhăn mặt:

– Chú nói be bé chứ không có anh váng cả đầu. Không anh không ốm, Tạng người anh thế Bấy lâu chú đi làm ăn đâu mà những đứa độc  mồm độc miệng bảo chú chết rồi.

Tôi cười:

– Em chết làm sao được! Ði xa thích lắm. Em về chuyến này, trước thăm mẹ và các anh, sau rủ anh cùng đi xa.

Anh hoảng hốt hỏi lại:

– Ði đâu?

Tôi đùa, quát to:

– Ði xa! đi xa!

Thế là ông anh tôi thất kinh, trễ cả hai râu mũi xuống. Anh khụyu chân ngã giụi và nói lảm nhảm: “Ði…xa…chết…nó…chết”.

Thảm hại quá! Vì đâu anh tôi mắc bệnh sợ đến như vậy, cái gì cũng sợ, chưa chi đã sợ, sợ đến chết ngất. Không phải bệnh ấy có từ bẩm  sinh đâu. Lúc bé, anh em chúng tôi đều khoẻ mạnh như nhau. Câu chuyện bệnh sợ của anh tôi như sau:

Ra ở hang riêng ít lâu, một hôm anh đi chơi tha thẩn vào vườn rau. Anh đứng dưới chân một cây cải xanh. Trên mép lá, một chim  Chích đang nhặt sau. Có thể là vô ý, chim Chích ỉa toẹt một bãi trúng lưng anh. Anh giũ cánh, lẩm bẩm chửi đứa nào bậy bạ, mà anh  không biết đứa nào, bởi vì lúc ấy chim Chích làm xong công việc vô ý ấy rồi điềm nhiên cong đuôi chui vào khều con sâu trong kẽ  chiếc lá cải to.

Nghe tiếng chửi, chim Chích quay ra, Chim và Dế đâm chuyện cãi nhau. Một bên thì chửi đứa ỉa xuống lưng tao. Một bên thì bảo mày  vu oan cho ông. ( Vì anh tôi đã giũ sạch ngay bãi *** chim trên lưng rồi ).

Không ai chịu nhau thì phải đến đánh nhau vậy. Thằng chim Chích kia thì bằng hạt mít, chân nó leo kheo như cái tăm hương và cái  mỏ oặt như sợi bún, còn anh tôi thì nào răng sắc, nào có ngạnh vênh rất hiểm, cứ dấn mạnh lên thì choảng cho nó vỡ mày vỡ mặt ra  chứ. Thế mà đù đờ đến nỗi anh tôi thua. Anh tôi co cổ chạy, Nó đuổi theo. Anh chạy thục mạng, nó cứ bay trên đầu, nó mổ xuống. Anh  tôi sợ quá, vấp ngã ngửa, nó cũng không tha, nó vẫn đuổi đánh, có lúc anh tưởng chết dọc đường. Rồi phải lê dần, chạy lê thế mà nó  vẫn mổ, vẫn đánh, nó đuổi đến khi lẩn được vào trong hang thì khắp người máu me, hai cánh ngoài rách nát cả và nằm chết ngất.

Không biết mấy hôm mới tỉnh. Từ đấy, nghe tiếng gió thổi ngoài cửa hang cũng sợ, tưởng thằng chim Chích lại đến đuổi đánh trên đầu.  Không dám đi đâu nữa. Ðói lắm mà đến khuya mới dám ra cửa lôi vội mấy cái cỏ già vào nhấm nháp. Thế là ốm dần. Cứ thế này rồi thì  mai kia cũng đến chết vùi thân trong hang mà thôi.

Một lúc sau, anh tôi mới dần dần tỉnh. Tôi cũng chẳng muốn nói thêm lời nào. Càng không dám đùa nữa. Ngại anh tôi có thể chết ngất  mà chết hẳn chăng.

Tôi ra ngoài bãi, hái mớ cỏ non và tươi nhất đêm vào biếu anh. Tôi lựa nói mấy câu an ủi. Ðến lúc anh tôi tỉnh táo như thường rồi  tôi mới khéo trách sao hồi đó anh không ngửa mặt giơ càng lên vừa đánh vừa đỡ vừa lùi vào hang, phỏng thử thằng Chích láo lếu đã  làm chi nổi! Anh tôi cũng chẳng tỏ vẻ gì ngẫm nghĩ để hoạ may còn nhớ lại được chút mạnh bạo nào không, anh chỉ lắc đầu.

Tôi lặng lẽ ra khỏi hang anh. Cũng không có một ý nghĩ rõ rệt. Còn nghĩ sao nữa, khi anh ấy đã run rẩy hèn đớn đến nỗi ai nói to  cũng giật mình thì có gì mà hy vọng rủ anh đi được.

Tôi đến thăm anh trưởng tôi.

Hang anh trưởng tôi rất khang trang. Coi vẻ phong lưu. Tôi đã biết tính anh thích ăn ngon, ưu phép tắc tôn ti trật tự, hay bắt bẻ  vặn. Tôi chào. Mặt anh hằm hằm đương tức tối điều gì. Tôi phải thưa với anh rằng bao nhiêu lâu anh em xa cách, em đã trải những  phút gian nan, tính mệnh treo đầu sợi râu, anh có biết không, em lặn lội từ xa về đây để gặp anh, sao trông thấy em, mặt anh cứ  lạnh như đá thế kia?

Anh tôi nói mát:

– Chả dám! Chú còn nhớ phép lịch sự đến thăm anh. Xin chả dám. Tôi đáp:

– Thưa anh, đi đâu thì em vẫn nhớ anh em ta cùng lứa mẹ sinh ra. Anh cười nhạt:

– Hừ, chú bảo chú nhớ anh mà lại vào nhà thằng hai trước khi đến đây, thế thì phỏng thử chú coi gia giáo nhà ta ra cái gì, đuôi  lộn lên đầu hử?

Thế ra anh tính giận tôi đã quên tôn ti thứ bậc. Thảo nào, mặt anh nặng như cái bị. Tôi định cãi lại một câu. Chẳng gì thì tôi đã  đi đây đi đó, tôi không thể cung kính theo được cái thói trên dưới thứ bậc và cái việc chấp nhặt nhỏ mọn này. Nhưng chợt nhớ đến  đây để rủ anh cùng đi, tôi đã quên tức và từ tốn trình bày:

– Thưa anh, em cũng biết thế, nhưng vì anh hai đau yếu, lai tiện em đi qua nhà, thấy nên vào thăm anh ấy trước. Thế đấy, chắc anh  vui lòng rồi.

Anh tôi không vui lòng, anh tôi vẫn to tiếng, hỏi giật giọng:

– Mấy năm nay chú đi đâu?

– Em đi du lịch.

– Du lịch? Ði du lịch, đi buôn bán? Tôi cười:

– Chẳng buôn bán gì đâu. Du lịch là xem xét các nơi cho mở mang trí óc ra. Anh tôi cười khẩy:

– Ði không kiếm được món ngon thì chỉ đi mỏi chân, có động dại mới đi như thế. Ði lang thanh thất thểu thì ai ở nhà trông nom phần  mộ tổ tiên, ai đèn hương cúng giỗ các cụ? Thời bây giờ đứa nào cũng nống lên với đi! Quân bất mục bất hiếu là chú, chú biết không?

Tôi giận lắm, nhưng chỉ cười thầm. Ðáng lẽ mẹ tôi nói những câu ấy mới phải. Nhưng mẹ hiểu, mẹ đã vui mừng thấy con bay nhảy sông hồ.  Tôi lại nghĩ giá tổ tiên tôi mà biết được việc này hẳn các cụ cũng phát chán cái thằng con cháu cứ khư khư ôm miếng đất đến mòn  đời, chẳng làm được gì để lấy tiếng thơm cho cha ông, Anh này mới dúm tuổi mà lụ khụ hơn cả người già lẫn cẫn.

Ðằng nào tôi cũng cần nói rõ ý kiến của tôi. Tôi nói:

– Thưa anh, em cũng biết rằng trên đời này muốn mở mang trí óc thì phải bước chân đi ra bốn phương “một ngày đàng một sàng khôn”,  tổ tiên ta dạy thế chứ các cụ không khuyên ta ngồi xó đâu. Cho nên em về đây, trước thăm anh, sau muốn rủ anh cùng đi phiêu lưu  với em.

Anh tôi hét to:

– Mày chửi tao à? Mày chửi tao.

Rồi xông đến trước mặt tôi. Nhưng tôi biết dù nổi nóng thế, anh cũng chẳng dám động đến tôi. Bởi tôi lực lưỡng to gấp mấy anh. Quả  thế, cáu lắm anh cũng chỉ dám cụng trán tôi và dừng lại, trừng mắt thế thôi.

Tôi bực mình, song vẫn cố làm vẻ bình tĩnh. Cái bình tĩnh lạnh lùng ngụ ý khinh khi.

Tôi nghênh mặt lên, không chào, lặng lẽ quay ra. Ðuôi cánh tôi quay chổng vào mặt anh một cách kinh thường. Tôi đã từ giã ông  anh cổ hủ của tôi một cách ngạo mạn như vậy. Ðể mặc ông anh tức tím ruột. Tuy vậy anh cũng không dám đuổi đánh tôi, đành ôm mối  căm hờn vì có đứa em hỗn láo dám đi phiêu lưu!

Tôi còn đi tìm vài anh em quen nữa. Song xem ra chỉ phường giá áo túi cơm thì lắm lắm. Có anh cũng như anh trưởng đã nói rằng nhà  mình con một, không thể nhất đán rời quê hương. Có anh mới nghe tôi nói đu du lịch đã xanh mặt lại và vái tôi. Có anh ngẩn ngơ  hỏi:”Ði xa thế độ mấy hôm thì về được?” Tôi chẳng buồn trả lời.

Một buổi chiều, tôi đứng bờ đầm nước, trông ra. Khi hoàng hôn xuống, mặt nước trời bỗng sáng lên trong giây lát, đượm vẻ bao la  khêu gợi vô hạn lòng giang hồ.

Bỗng sau lưng có tiếng ồn ào. Quay lại, tôi thấy một Dế Trũi đương đánh nhau với hai mụ Bọ Muỗm. Hai mụ Bọ Muỗm vừa xông vào vừa kêu  om sòm. Ai đã nói rằng “vừa đánh trống vừa ăn cướp”, lúc ấy tôi đã thấy tận mắt cái cảnh thật đúng câu ví vậy. Hai mụ giơ chân,  nhe cặp răng dài nhọn, đánh tới tấp. Trũi bình tĩnh, dùng càng gạt đòn rồi bổ sang. Hai càng Trũi móc toẽ đằng trước, khi hươi  lên, coi oai như cặp chuỳ đồng.

Tôi đứng ngắm và khen thầm. Xưa nay tôi vẫn có ý coi thường các cậu Dế Trũi – Dế Trũi quê kệch, mình dài thuồn thuỗn, bốn mùa mặc  ái gi-lê trần. Nhưng bây giờ, nhìn anh Trũi nhanh nhẹn này, tôi hiểu rằng không nên chỉ xem bề ngoài mà coi thường ai một cách hồ  đồ như vậy.

Trũi gan góc, một chống với đôi mà mà địch thủ vẫn luôn luôn bị cú đòn đau. Nhưng hai mụ Bọ Muỗm cứ vừa đánh vừa kêu, làm cho họ  nhà Bọ Muỗm ở ruộng lúa gần đấy nghe tiếng. Thế là cả một bọn Bọ muỗm lốc nhốc chạy ra. Trũi biết thế nguy, lủi khỏi vòng chiến nhảy  bòm xuống dòng nước, bơi sang bên này. Cách nước rồi, yên trí, Trũi lại nghênh ngang đứng hướng về bên kia, giơ chân, giơ càng doạ  lại bọn Bọ Muỗm vừa kéo tới. Thấy thế, bọn Bọ Muỗm tức, bật lên một cử chỉ bất ngờ là chúng bay ào sang rợp cả mặt nước.

Trũi ta không dè bọn Bọ Muỗm bay mau thế. Anh ta chỉ kịp giơ hai cái càng răng cưa tròn xoe lên thì đã thấy không biết bao nhiêu  răng, móc đánh, chém tới tấp xuống. Trũi ngã quay. Lũ kia xô cưỡi lên. Nhất định có án mạng phen này.

Tôi vội nhẩy tới. Bọn Bọ Muỗm hốt hoảng bay đi hết. Trũi nằm chỏng gọng, bất tỉnh nhân sự. Tôi vực về cửa hang, lấy nước phun vào mặt  Trũi.

Một lát, Trũi tỉnh, còn rên hừ hừ. Bị nhiều đòn đau thâm tím cả mình.

Trũi kể tôi nghe. Vốn trước kia hang Trũi xóm xa bên cánh đồng khác. Một lần sang bên sông, thấy cỏ tốt quá bèn đến ở bên đó. Xóm  ấy có Bọ Muỗm trú ngụ nhiều. Bọn Bọ Muỗm thấy tự dưng có kẻ lông bông ở đâu đến, không ngày nào không có Bọ Muỗm đến sinh sự. Chúng  cắt lượt nhau suốt ngà vào cà khịa, làm cho Trũi không chịu được. Nhưng Trũi vẫn gan lì. Có khi chúng dọa đánh chết Trũi.

Trũi rất ngang, không sợ. Ðứa nào chửi thế nào, Trũi chửi lại thế ấy. Ðứa nào muốn đánh nhau, Trũi đánh nhau. Tiếng Bọm Muỗm bắng  nhắng thế, nhưng dù thế cũng phải kiềng kẻ gan dạ, nên cũng mới chỉ có những cuộc xô xát xoàng thôi. Trận ẩu đả hôm nay là to nhất.  Bọn bọ muỗm định đánh chết Trũi thật. Chúng cho hai mụ ra sinh sự, lấy cớ rồi kéo cả lò ra. Ðây là trận đòn thù chứ không phải cuộc  ẩu đả tình cờ như tôi tưởng lúc mới đầu.

Trũi rối rít tạ ơn. Tôi khuyên Trũi nên ở lại hang tôi mà chữa bệnh cho tới khi khỏi hẳn mới về.

Ðược ít lâu, các vết thương của Trũi lành dần.

Mấy hôm trò truyện cũng Trũi, tôi biết tính Trũi rấy vui, hay nói pha trò và yêu đời. Nhưng tôi thích nhất Trũi cũng ưa sự đi  đây đi đó, Trũi thường khoe rằng tuy Trũi còn ít tuổi nhưng đã từng đi xa. Tôi ngỏ ý rủ Trũi sẽ cùng đi du lịch. Tôi bảo rằng ở  phía chân trời xa kia chắc có nhiều cái lạ, không nên về đồng cỏ cũ nữa. Trũi reo lên, nhận lời ngay.

Chúng tôi kết làm anh em.

Từ hôm ấy, Trũi ở luôn hang tôi và Trũi tôn tôi là anh. Còn tôi gọi Trũi là em. Thề rằng từ đây sinh tử có nhau.

Chúng tôi sửa soạn.

Một ngày cuối thu, tôi và Trũi lên đường. Hôm ấy nước đầm trong xanh. Những áng cỏ mượt rời rợi. Trời đầy mây trắng. Gió hiu hiu  thổi như giục lòng kẻ ra đi. Thế là tôi rời quê hương lần thứ hai.

---------------

Ði lùi về phía sau hang tôi, có một cánh đồng lớn. Trèo lên ngọn cỏ lau cao nhất, ngước mắt trông chỉ thấy xa tít tắp mà chẳng thấy  chân trời. Khởi đầu, chúng tôi định đi suốt cánh đồng và bãi hoang.

Chúng tôi, ngày đi đêm nghỉ, cùng nhau say ngắm dọc đường. Non sông và phong tục, mỗi nơi mỗi lạ, mỗi bước rời chân mỗi thấy tuyệt  vời. Nhìn không biết chán. Mỏi chẳng muốn dừng. Bạn đọc yêu quý, thật có đi, có trải, còn như ro ró cái thân sớm chiều ngơ ngẩn  góc bãi cửa hang thì sao hiểu được trời đất, bến bờ là đâu.

Ngày kia, chúng tôi mê mải đi, tối lúc nào không biết. Một lúc, mặt trăng trắng bạch từ từ nhô lên.

Ðêm ấy, trăng sáng lắm. Tôi bàn với Trũi, nhân đêm sáng trăng, trời đẹp và mát, ta cứ đi, không cần ngủ đỡ. Nhưng nửa đêm, nổi cơn  mưa lớn. Chúng tôi ẩn lại dưới tàu lá chuối, cả đêm nghe mưa rơi như đánh trống trên đầu. Sáng hôm sau, bừng mắt dậy, trời đã tạnh  hẳn. Tôi nhìn ra trước mặt, thấy một làn nước mưa mới chảy veo veo giữa đôi bờ cỏ. Ðây là con sông mà đêm qua chúng tôi không rõ.

Tôi bảo Trũi: “Xem như dòng sông này chảy ngoặt về phía bên kia, tức là cũng dọc theo đường mà chúng ta định đi. Mấy hôm chúng  mình quốc bộ đã nhiều, bây giờ ta thử xuống sông đi thuỷ một chuyến. Trũi nghĩ thế nào? Cũng phải tập cho quen sông nước chứ!”

Trũi nghe ngay. Trũi bàn mỗi đứa nên đi một chiếc thuyền bằng lá sen thật khô. Mùa nước lớn muộn này cái giống sen nhật trôi lang  thang mặt nước vẩn vơ như chim vỡ tổ. Mỗi chiếc lá có một bầu phao khô to như quả trứng, cưỡi lên thì nhẹ và êm lắm. Tôi cũng nghĩ  thế. Nhưng tôi bàn thêm: lấy vài lá sen nhật ghép lại đóng thành bè đi chung, tiện lợi hơn nhiều. Chúng tôi bèn ghép ba bốn cánh  sen nhật lại, làm một chiếc bè.

Bè chúng tôi theo dòng trôi băng băng.

Mùa thu mới chớm nhưng nước đã trong vắt. Trông thấy cả hòn cuội trắng tinh nằm dưới đáy/ Nhìn hai bên ven sông, phong cảnh thay  đổi đủ điều ngoạn mục. Cỏ cây và những làng xa gần, núi xa luôn luôn mới. Những anh Gọng Vó đen xạm, gầy và cao, nghênh cặp chân  gọng vó đứng trên bãi lầy nhìn theo hai tôi, ra lối bái phục. Những ả Cua Kềnh cũng giương đôi mắt lồi, tình tứ và âu yếm ngó theo  hai tôi với muôn vẻ quý mến. Ðàn Săn Sắt và cá Thầu Dầu thoáng gặp đâu cũng lăng xăng cố bơi theo bè hai tôi hoan nghênh váng cả  mặt nước.

Mỗi hôm, cứ chừng gần nửa buổi. Trũi lại khoan thai thò cái càng như chiếc bơi chèo thả xuống nước lái bè vào bờ lấy cỏ ăn. Cái  cách vừa đi vừa nghỉ ấy cũng mất thì giờ nhiều. Sau chúng tôi định đi luôn một thôi nhiều ngày. Thế rồi có lần ghé vào bờ, chúng  tôi chọn bụi cỏ tốt, hái đầy xuống đầy bè cỏ non, tưởng phải chén đến hai phiên chợ mới hết. Nhưng đi sông nước chóng đói, mới có  hai ngày một đêm, đã lại phải tạt vào hái cỏ. Tuy vậy, cũng nhanh hơn trước nhiều.

Ðêm ấy, trời tối như mực. Tôi ngồi phục vị, mơ màng nghe nước óc ách chảy như tiếng đàn thảnh thơi ai gảy dưới gầm bè mà ngủ quên lúc  nào không biết. Khi dậy, trời đã sáng.

Nhưng ô hay! Sao thế kia? Nhìn xung quang tôi không biết để đâu cho hết bâng khuâng. Quay sang bên cạnh, thấy Trũi cũng đương đờ  ra. Hai cái râu Trũi hơi đụng đậy, chắc cu cậu đương xúc động lắm. Bè chúng tôi không còn ở trong dòng sông xinh đẹp hôm qua với  hai bờ cỏ non xanh tươi mà bây giờ chúng tôi đương trôi vào quãng mênh mông, không trông thấy hút bờ phía nào. Như ở giữa bể.  Nghĩa là chúng tôi đã từ sông mà trôi ra vùng nước lớn từ đêm hôm qua. Chao ôi những bất trắc gì đang đợi chúng tôi đây?

Tôi sục tìm trong bè xem có vật nào khả dĩ dùng làm bè bơi chèo được. Nhưng chẳng có chi, ngoài mấy cái xương sống lá và một ít  cỏ. Trũi lại thò hau chiếc càng bơi chèo của mình xuống bơi một lúc. Nước to, bè dềnh ngược dềnh xuôi, cái bơi chèo càng kia chẳng  thấm vào đâu. Trũi tỏ vẻ chán nản, ngước lên thở dài. Bây giờ đành lênh đênh giữa nước, không cách gì khác là mặc gió đưa đi đâu  thì đưa. Ðưa vào bờ nào đó chờ đợi ở chỗ tận cùng ấy. Mà gió thì đương thổi bè đi xa.

Chúng tôi đành nằm yêu chờ đổi gió và rủi may. Sóng đánh cao quá. Ðứng trên bè trông ra thấy sóng nối nhau nổi lên lồi lõm như  núi trước mặt. Bè chúng tôi lao từ ngọn sóng xuống cuối sóng, nhiều lúc tưởng chui ngụp cả vào trong nước. May nhờ được cái bè vốn  nhẹ nên tuy nước dữ, chúng tôi bán chật chắc sóng cũng không lật chết nổi chúng tôi.

Có điều tôi quên chưa nói cùng bạn đọc, ấy là cái dạ dày của chúng tôi vốn rất háu ăn, lại phải xốc vác trên sông nước, cho nên  chóng lép ghê. Thường một ngày tôi chén tới ba bữa là ít. Mà bây giờ, dần dần mới vài ngày lênh đênh đã nhẵn hết cỏ. Thế là bốn  phía vẫn mênh mang không thấy bến bờ nào hết. Trũi lại nhìn tôi, băn khoăn, buồn. Tôi cố bình tĩnh, vẫn vui như thường. Thấy thế,  Trũi cũng hơi yên lòng. Tôi vũ cánh múa càng, vừa múa vừa hát nghêu ngao. Trũi cười. Rồi Trũi cũng múa càng lên. Trong cơn gian  nguy, có được sự bình tĩnh cũng đã là có một cớ để tin tưởng.

Qua ngày thứ hai thì tôi cũng hết hơi. Mỗi khi há miệng, ruột lép muốn co lên/ Trũi tìm cách gặm lại những mép lá sen khô. Nhưng  ăn lá khô khác gì ăn gỗ không nuốt được. Vừa đói vừa mệt, mà chúng tôi lại không dám nhắm mắt ngủ, sợ nếu chợp đi, vô ý không bám  vững vào bè, gặp sóng to đánh, bè úp không kịp níu lại, hoặc có con cá lớn đói mồi nào quẫy lên đớp nhằng một cái thì mất mạng như  chơi.

Ngày thứ ba, một màu nước trắng

Ngày thứ tư, vẫn một màu nước trắng

Ngày thứ năm, màu nước trắng

Ngày thứ sáu, nuớc trắng.

Ngày thứ bảy…trắng…

Ngày chín

Ngày mười

Qua ngày mười, cả hai chúng tôi không đứa nào còn có thể đứng lên được. cái đói ghê gớm cứ đánh liệt dần từng bộ phận trong người,  bây giờ đến lúc nó làm dúm kheo lại, chân run lẩy bẩy, lại phải nằm móp bụng xuống. Từ chỗ này muốn qua chỗ khác, chúng tôi chỉ  lách nhích từng tẹo.

Trũi khẽ thở dài:

– Chết mất, anh ạ. Tôi đáp:

– Ðừng lo. Xem mây vẩn trời, đêm nay có cơ đổi gió. Anh thấy hình như có cái bóng xanh mờ mờ đằng kia. Có phải đấy là bờ, gió mà  đưa được anh em ta về chỗ bờ xanh xanh ấy là tốt rồi. Trũi bảo Trũi không nhìn thấy. Còn tôi, không biết là loá mắt hay đấy cũng  chỉ là tưởng tượng trong hy vọng mà thôi. Hơi sức mỗi lúc một khác. Chiều hôm ấy thì đã đến cung cảnh muốn nói đôi câu, chúng tôi  phải ghe vào nhau thì thào, tiếng cứ phào phào.

Trũi băn khoăn. Trũi hay nhìn trộm tôi, tôi đoán thế, tôi hỏi luôn:

– Chú sắp có mưu gì bàn cùng anh? Trũi lắc đầu. Nhưng lát sau, Trũi nói:

– Thưa anh, em nghĩ anh em mình khó lòng thoát chết.

Tôi gạt:

– Chú đừng nghĩ thế mà nản lòng anh em ta. Trũi tiếp:

– Anh mắng thì em cũng nói. Em tuyệt vọng rồi, mắt em mờ đi rồi đây này. Trũi im một lát rồi lại thều thào:

– Em trộm nghĩ chết thì đành chết. Nhưng không nên chết cả, vô ích, ta phải tìm cách…

Tôi hỏi:

– Chú nói như vậy nghĩa là sao? Trũi ngập ngừng:

– Nghĩa là…Nghĩa là…ta tìm thứ gì tạm ăn cho sống được. Em có đôi càng…anh…

Tôi ngắt lời:

– Thôi anh hiểu bụng chú rồi. Chú cứ nghĩ rằng không nhẽ anh em ta lại chịu chết lênh đênh cả như thế này, mà phải cứu sống lấy  một. Chú định để anh ăn thịt chú, chú chịu hy sinh cho anh sống. Ta khen chú điều thủy chung. Nhưng em ơi! Tử sinh là lẽ thường mà  mạng em cũng như mạng anh, đều quý cả. Huống chi, chẳng lẽ chúng ta chịu nằm chết đói trên mặt nước này? Dù thế nào cũng không bao  giờ nản chí…

Trũi cứ khẩn khoản rồi chìa càng lên mời tôi ăn. Trũi gượng cười bảo rằng Trũi cụt cả hai càng cũng không sao, không thể chết, vẫn  khoẻ như thường. Trũi đã thấy có anh dế cụt càng như thế. Tôi gạt phắt đi và mắng Trũi. Sau cùng anh em tôi ôm nhau mà khóc. Những  giọt nước mắt thương nhau ấy đã làm Trũi yên tâm và bình tĩnh trở lại.

Ðêm ấy, trời trở gió, chơ vơ giữa trời nước, gió lại thổi nhiều, lạnh quá. Chúng tôi nằm co quắp vào nhau. Trũi ngửa mặt lên trời,  gần như ngất đi. Họ dế chúng tôi, ai cũng vậy, chỉ có khi sắp chết thì mới chịu phải nằm ngửa. Bây giờ thấy Trũi như thế, tôi đã lo  lo. Tôi sờ lên mặt Trũi xem còn thở không, rồi lay gọi, mãi Trũi mới ú ớ tỉnh. Trời nghe trở gió ầm ầm trên mặt nước. Tôi chợt nảy  cái mừng vu vơ: ” Có lẽ gió này đưa chúng tôi vào bờ. Có lẽ thế…Có lẽ…” Tôi chợp mắt, cũng chiêm bao thấy thế. Tới nửa đêm, tôi  cũng mệt quá, thiếp đi.

Sớm sau, nghe đầu bè có tiếng động rền như tiếng sấm. Tôi thức dậy, hé cặp mắt nặng nề.

Nhưng mắt vừa hé đã bị chói đầy ánh sáng mặt trời. Tôi nhích đầu lên – cổ đây như bị ai cứa – tôi thấy ngợp mắt một bờ cỏ xanh rì.  Thì ra bè chúng tôi, từ lúc nào đã trôi vào gần một bờ cơ, cái tiếng sấm đằng kia vang lại chỉ là những tiếng động quen thuộc của  làng xóm đằng ấy đương rộn rã trong một ngày nắng.

Tôi bò đến lay Trũi. Trũi vẫn nằm nhuôi như chết. Tôi phải nghe và đập vào ngực xem còn thở không. Vẫn còn. Tôi cúi xuống ngậm  nước phun vào mặt Trũi. Chốc Trũi hắt xì hơi liền ba cái. Vừa tỉnh, mắt còn nhắm, Trxu đã rền rĩ kêu. Tôi trỏ vào bờ xanh xanh.  Trũi nghển cổ nhìn rồi rú lên. Trông thấy sống. Thế là tự nhiên chúng tôi khỏe hẳn hơn lúc nãy.

Nhưng cũng phải đến chiều, bè chúng tôi mới giạt vào và bấy giờ chúng tôi mới lên được bờ. Bè vào sát bụi cỏ, tôi túm lấy leo.  Trũi cũng làm như tôi, không đến nỗi rơi xuống nước.

Chúng tôi lên bờ, để lại đằng sau chiếc bè trống không nhẹ bỗng, vụt cái, trôi vèo vèo vào gió nước. Bè ơi bè, từ nay giã biệt  mày.

Tôi cúi xuồng gặm miếng cỏ. Bên cạnh, Trũi húc đầu hi húi ngồm ngoàm ngốn tự lúc nào. Thứ cỏ đó, cỏ nước. Lá cứng nhiều gân và ngăm  ngăm đắng. Phải như mọi ngày, tôi chẳng thèm ghé răng. ấy vậy mà lúc đó chén ngon đáo để. Thế mới biết, đã đói, nuốt đất cũng thấy  được.

Ăn xong, trời đổ tối. Cẩn thận, chúng tôi chạy một mạch vào trong đề phòng nếu đêm có mưa, nước lớn không cuốn chúng tôi đi được.  Ðến bãi cỏ trên mô đất cao, chúng tôi lăn ra đánh giấc say sưa.

Sáng hôm sau, tôi trèo lên ngọn hoa cỏ xước, ngắm địa thế chỗ chúng tôi bạt phong vào. Ðó là khoảng bãi rộng, lầy lội bùm tum toàn  giống cỏ nước. Quá phía trên, đất hơi ráo, nhưng cũng chỉ độc một thứ cây ké hoa vàng rượi. Xóm ấy xưa rày sống vất cả trong bùn lầy  nước đọng. Dân cư chỉ có vài nhà Cóc, mấy anh ễnh Uơng, Chẫu Chàng, Nhái Bén, một ếch Cốm và một chú Rắn Mòng. Hoặc giả cũng có  thêm một vài giống nữa, nhưng cả cái xóm bùn lội đen ngòm với da dẻ chân tay loài ở bùn cũng om như thế, ít ai mới nhìn đã mới  nhìn đã phân biệt ngay ra được.

Xóm ở chơ vơ trong cái cù lao giữa nước, muốn vào đất liền phải qua bãi lầy và một dòng sông nhỏ. Theo thói quen ở bãi, vả lại,  đường sá đi lại diệu vợi, mọi nhà trong cù lao không mấy ai ra ngoài, không ai nghe biết tin tức mọi nơi. Suốt ngày bàn tán quanh  quẩn lúc nào cũng vang động tiếng cãi cọ, tranh nhau đoán suông xem bao giờ thì trời mưa. Suốt đời họ mong mưa. Bởi có mưa, đất  lầy nhuyễn ra, dễ đào bới, mới được cái ăn. Cứ điều qua tiếng lại, mỗi miệng thêm một lời, không ai nhịn ai, uồm uồm oang oang mãi  lên. Cánh này đã to tiếng thì thì phải biết là ầm ĩ. Mới có cậu ễnh ương căng mép, phình bụng chỉ nói một câu bình thường cũng  vángt ai cả xung quanh rồi.

Chúng tôi vào đây, nghe loạn xạ, mà đi một lúc chưa gặp ai. Mãi sau có anh Rắn Mòng trông thấy chúng tôi Rắn Mòng ngoe nguẩy  trườn ra – chỉ có trẻ em nhút nhát thì sợ Rắn Mòng chứ thật ra anh Rắn Mòng hiền như cái đụn rạ, Không ai thấy anh nói bao giờ,  tưởng câm, nhưng anh ấy chỉ có tính ít nói thôi. Hàng ngày, anh Mòng vơ vẩn trên mặt nước đợi mồi. Một Muỗi Mắt, một gã Bọ Bèo lạc  tới, anh tợp ngay. Nhưng thường đợi cả tháng cũng chẳng được cái tợp nào. Mòng đương lúc đói, mới nghe tiếng chân chúng tôi đi tới  liền bò ra. Nhưng khi thấy chúng tôi to lớn, chân càng gai ngạnh không thể là mồi của anh thì, thì Mòng lại cúp mắt xuống, nhìn  chỗ khác và trườn đi.

Sau có Nhái Bén trông thấy chúng tôi. Nhái Bén tính nhau nhảu liền ra bảo ễnh ương đi rong khắp nơi đánh lệnh vang vang rao cho  cả làng nước biết có người lạ vào địa phận. Thế là, cả xóm lô nhô kéo ra. Trông những cái bụng lép và nét mặt vêu vao, tôi đoán  biết họ kéo ra làm gì. Họ ra xem chúng tôi có gì cho ăn hoặc chúng tôi có phải là thức ăn được không. Nhưng thấy chúng tôi sừng  bướng, đầu mình bọc giáp sắt, chân mang khí giới nhọn hoắt thì họ lại lờ vờ lảng dần.

Ðã lâu trời không mưa, không có nước dềnh vào xóm – nước hồ lâu mưa thì trong vắt, chỉ đẹp mắt mà không có thức gì ăn nên dân cư  trong hồ đói lắm. Bao giờ cũng vậy, sự cùng quẫn hay khiến ta nghĩ ngợi và giận dữ. Không biết vặc vào ai. Chẳng biết trời ở đâu mà  lôi xuống bắt làm mưa – dù cho tiên sinh Cóc có được tiếng là cậu ông trời đi chăng nữa thì cũng đành chịu, cho nên họ đâm ra  nóng tính, động một tí cũng cáu kỉnh, bực tức ầm cả lên. Trong xóm không lúc nào dứt tiếng chửi vã. Nhà này đòi nợ nhà kia, chỗ  này bàn, chỗ kia tán, inh ỏi những uôm oạp, những kèng kẹc ngày đêm không bao giờ ngớt, bởi vì không biết giải quyết thế nào.

Thấy chẳng ăn thua gì, mấy anh nọ lảng đi như Rắn Mòng. Chỉ còn đôi ba bác Cóc ngẩn ngơ đứng lại. Một Cóc tóp tép miệng, như tợp  được mồi, vờ nhai cho đỡ thèm. Một Cóc khác bước ra, cất lên một giọng rất văn vẻ ( Cóc vẫn nổi tiếng thầy đồ, thầy đồ Cóc trong  tranh Tết ):

– Hà cớ mà nhị vị tráng sĩ du nhàn qua bản thôn?

Rõ chán, nói chữ mà chưa chắc đã biết nghĩa, tôi bấm bụng nhịn cười thầy đồ Cóc rồi dùng cái khoa giao thiệp hoa mỹ khôi hài đó  đáp đùa lại:

– Thưa tiên sinh, chúng tôi đi du lịch.

– Kèng kẹc! Du lịch! Kèng kẹc! Du lịch! Vậy bỉ phu xin hỏi nhị vị tráng sĩ, nhị vị xưa rày là tay dọc ngang nào biết trên đầu có ai,  thế thì chắc nhị vị phải nghe tiếng từ lâu rằng bỉ phu mặc dầu thanh bạch ở hang dưới đất nhưng bỉ phu là cậu thằng Trời đấy! Nhị vị qua  chơi nhiều nơi trên hoàn cầu, nhị vị có gặp thằng cháu “trời đánh thánh vật” nhà tôi ở đâu không?

Trũi mỉm cười, dùng càng hích tôi một cái. Tôi nháy, ý bảo phải nghiêm một chút, gặp đứa dở hơi thì cũng cứ liệu lời cho qua chuyện  mới được. Tôi bèn lấy điệu vuốt râu tưởng tượng, làm vẻ đứng đắn trả lời rằng:

– Thưa tiên sinh, chúng tôi có gặp ông Trời.

– Kèng kẹc! Rất tiếc! Kèng kẹc! Rất tiếc không được tương kiến trước. Thế thì nếu như từ nay về sau nhị vị tráng sĩ có còn gặp nó thì  hỏi nó cho bỉ phu rằng: Vì lẽ gì mà lâu nay bản thôn không có nước mưa? Cái thằng “trời đánh thánh vật” cháu tôi mê mải tổ tôm xóc  đĩa ở đâu mà không biết suốt đêm cậu Cóc nó phải nghiến răng kèng kẹc đến nỗi đâu đâu cũng nghe như tiếng trống đăng văn ấy chăng,  đến đỗi cậu nó đã nghiến mòn hết cả răng rồi đấy chăng?

Suýt nữa tôi bật cười thành tiếng. Giỡn chơi thế chứ nào tôi biết cái lão Trời “trời đánh thánh vật” ấy ở mô tê! Tôi còn đương bụm  miệng nhịn cười, nhưng Trũi đã ngứa tai không giữ nổi vai kịch, bỗng choang một câu:

– Trời với đất, cậu với cháu, chỉ vớ vẩn! Nói thẳng thừng là muốn ăn mà chỉ ngửa tay thế thì kêu đến sái cổ, gãy răng, gãy hàm nữa  cũng chẳng quả sung nào rụng trúng vào mồm đâu.

Cóc còn đương ngơ ngác nghe chưa thủng câu nói mỉa mai của Trũi, tôi đã chen vào, át đi, tôi cung kính, lễ phép nói to:

– Thưa tiên sinh, tôi nhớ ra rồi, tôi nhớ dù chưa được tiên sinh dặn thế, chúng tôi cũng đã có tâu hỏi việc lâu nay sao hạ giới  không mưa. Ông Trời ông ấy cứ xua tay nhăn mặt mà rằng hồi này tôi mắc bận, chưa mưa được, chưa mưa, bận lắm lắm. Việc ông Trời là  việc làm mưa mà ông ấy lại kêu mắc bận, chẳng hiểu bận gì, tôi cũng chẳng hiểu ra sao cả, nhưng không dám hỏi nữa.

Tôi nói thế, Cóc ta đã kêu kèng kẹc vẻ mãn nguyện, ầm ĩ:

– Bỉ phu hiểu rồi! Hiểu rồi! Hiểu rồi! Thế ra cháu nó bận quá đến nỗi quên cả cho cậu nó uống nước. Cháu nó bận quá! Có thế chứ! à  ra thế! Thảo nào!

Cóc cứ dấm dớ lý sự và lẩm nhẩm một mình nghĩ, một mình nói thế trong khi cả đàn cóc nhô nhốp nhảy ra lại nhảy vào, vừa kèng kẹc,  vừa gật gù: Có thế chứ, à ra thế! Thảo nào! Tự an ủi mình bằng câu chuyện tầm phơ của tôi. Các cậu cóc chỉ quanh quẩn xó hang mà  khoái cái oai hờ “con cóc là cậu ông trời” là như thế.

Chúng tôi nhắm mắt, nhắm mũi lại lăn ra cười. Ðến khi mở được mắt, không thấy Cóc đâu nữa chỉ thấy đi tới một chàng Nhái Bén gầy,  lêu đêu cao, hai cái đùi bé quắt mà dài quá nửa thân mình. Bộ quần áo thể thao của Nhái Bén bó sát người, cứ so le, xộc xệch,  càng có cảm tưởng như cái cẳng chân nó dài thêm ra. Chúng tôi lại toan cười. Nhưng mặt Nhái Bén vốn nhợt bây giờ nghiêm xám hẳn  lại. Tôi im. Tôi ngờ có điều gì đây.

Quả thật. Lão Cóc có tính khuyếch khoác chứ không phải lão Cóc là cục đất mà ai chửi vào mũi lão cũng được! Còn có câu ví “gan  cóc tía” cơ mà. Lão cũng thâm lắm, cho nên sự chế giễu và nhạo báng lão của chúng tôi không qua nổi ý tứ lão, đến lúc chúng tôi  nhắm mắt lại cười vào mũi lão như thế thì lão cáu lắm, và thành cái kết quả ngay là các lão đi khắp xóm là có kẻ trộm vào xóm.

Nháy mắt, Nhái Bén nhảy thoắt đến trước mặt, nói:

– Ðại vương ếch có lệnh đòi.

Chúng tôi theo Nhái Bén đến dưới một búi cúc tần ẩm thấp, nhớp nháp, trông vào thấy ếch chồm chỗm ngồi vênh mõm trên viên gạch  vuông như kiểu ngồi trên sập, ra điều uy nghi lắm. Ðôi mắt lồi nghiêm nghị của lão ta cứ giương trừng trừng. Hai khoeo chân trước  khoảnh ra, đôi chân sau xếp tè he lại. Ngực và bụng trắng bóng giống lối cổ áo thầy kiện, cứ phập phồng đưa lên đưa xuống lấy hơi  sắp nói, nhưng mãi chẳng thấy nói gì. Ðặc biệt trên gáy lão ra điểm mấy miếng xanh ở cổ áo và lưng áo như hạt cốm. Bởi thế, lão  cũng có tên là ếch Cốm.

Và có lẽ trong hoàn cảnh đói kém này, lão cậy mình còn to béo khoẻ mạnh nhất vùng nên lão xưng là đại vương, đại vương ếch Cốm! Với  chúng tôi, đại vương hay là cái gì thì cũng chẳng bận tâm, qua câu chuyện tôi chỉ có nhận xét tính lão cũng hệt bọn đồ cóc đã dốt  lại còn hay khoe chữ, còn cái tính khoác lác của ếch thì một tấc đến trời, hơn Cóc nhiều. Chuyện với anh nói khoác nó chỉ biết nói  cho nó nghe và không biết nghe ai nói cả, cứ tức anh ách như bị bò đá.

ếch cốm hỏi ( hay nói cũng không rõ )

– Chúng bay sang buôn ngọc bên vùng Rùa Rùa trong chân núi…

Tôi đáp:

– Thưa, tôi…

– Biết rồi, ta biết rồi, đây vào đến vùng Rùa Rùa còn xa một phiên chợ. Ngày trước ta đã…

Trũi sẵng tiếng ngắt lời:

– Không, tôi không đến vùng Rùa Rùa!

– Ta biết rồi… Ngày trước ta đã vào chơi vùng Rùa Rùa trong chân núi ấy…Ngày trước ta…Ngày trước ta…Ngày trước ta…

Nói có mấy câu thì đầu đuôi câu nào cũng “ngày trước ta…” và “ta biết rồi…”. Nên cho anh chàng khuếch khoác này thêm cái biệt  hiệu là anh “ngày trước ta” hay anh “biết rồi”. Cái lão đại vương ếch Cốm này chẳng biết cóc gì nhưng cái gì cũng nói trước, mình  chưa nói hết câu nó đã nói nốt câu mình nói, cái gì cũng tỏ vẻ biết, và cái gì ta cũng giỏi. Bây giờ tôi mới rõ câu tục ngữ “ếch  ngồi đáy giếng” thế mà thâm và ý nghĩa sâu.

Không ai chịu được những anh đã dốt lại hay tự đắc và dở hơi. Trũi có tính nóng nảy. Thấy trái tai, Trũi cãi phăng, nói phăng. Rồi  muốn ra sao thì ra!

Trũi văng một câu:

– Này ông hỏi chúng tôi, chúng tôi đã trả lời đâu mà ông biết được, ông chẳng biết cóc gì hết! Ông là ếch ngồi đáy giếng, ếch ngồi  đáy giếng chỉ trông thấy mẩu trời trong miệng giếng đã tưởng nom thấy cả vòm trời! Ha ha! ếch ngồi đáy giếng. Hôm nay mới thấy thật  ếch ngồi đáy giếng.

ếch cốm tức quá, hét ầm ỹ đuổi Trũi, Trũi điềm nhiên giơ càng. ếch Cốm không dám xông đến. Chúng tôi không chạy, cũng không nói,  chúng tôi ung dung đi ra. Làm vẻ ngông nghênh cũng không tốt, nhưng lúc ấy chúng tôi thú vị như thế đấy.

ếch cốm gọi cả xóm lại, bàn cách nện chúng tôi. Nhưng buồn cười thay, xóm này mới chỉ rỉ tai bàn bí mật mà đi tận xa xa cũng nghe  tiếng uôm oạp. Nói thế này, thế nọ, cứ ầm ỹ rối xoè. Ai cũng kêu là ghét hai thằng lếu láo, giá thấy mặt bây giờ thì phải đánh cho  chúng mấy đánh. Những quân lang chạ ở đâu đến rõ bọn đầu trộm đuôi cướp. Phải vặn cổ nó xuống, tức lắm, phải nện cho chúng nó một  trận nhừ tử.

ếch cử ễnh ương và Chẫu Chàng đi đánh chúng tôi, cả hai anh chàng cùng nhăn nhó là có bệnh đau bụng kinh niên. ếch bảo Cóc. Ðáng  lẽ Cóc phải hăng hái đi nhất thì Cóc trả lời rằng với chúng tôi, Cóc là chỗ quen biết, xưa nay có giao thiệp, vả chăng, đã là thầy  đồ nho nhã biết ngậm cái bút lông mèo thì không bao giờ thượng cẳng chân, hạ cẳng tay như kẻ tầm thường. Ðến lượt Nhái Bén, Nhái  Bén ngoẹo mình, giơ mạng sườn, làm hiệu và kiếu: tôi gầy lắm, đứa nào thổi mạnh một cái tôi cũng ngã huống chi chúng nó những hai  đứa… Rắn Mòng khước mình vừa lột, xương cốt mình mẩy còn mỏng manh lắm, chưa làm việc nặng được.

Ðến khi cả bọn Cóc, ễnh ương, Nhái Bén, Chẫu Chàng, Rắn Mòng đồng thanh cử đại vương ếch cốm hãy tạm rời cái mà ếch mùa đông ở bờ đầm  nước và cái sập gạch kiên cố ấy, bước ra, đi trước, bọn họ sẽ theo sau trợ chiến thì ếch cốm ra phồng bụng, phồng mép, trố mắt, quát:

– Như ta đây đường đường một đấng trượng phu hai nhãi ấy chưa đáng mặt đọ sức với ta…

Rút cuộc, ai về nhà nấy và lại làm công việc hàng ngày của mình. Mòng và Cóc đi rình muỗi. Nhái Bén leo cây. Chẫu Chàng hát  nghêu ngao. Những kẻ khác thì ngồi than vãn, khóc lóc hoặc cãi vã nhau cho qua ngày. Còn đại vương ếch Cốm vẫn lặng im tư lự một  cách vô tích sự trên hòn gạch vuông – suốt mùa đông lão ngồi ngậm hơi không một lần nhích đít khỏi cái sập oai vệ trong cái mà  của lão.

Chúng tôi chẳng muốn gây sự và cũng không lưu luyến gì đất này, đất buồn. Có đáng kỷ niệm đây chỉ là nhớ nơi mà chúng tôi lênh  đênh từ ngoài nước lớn giạt vào – một lần thoát chết.

Tôi cùng Trũi đi ngược lên phía những rặng cây ké hoa vàng lấp lánh một giòng sông.

Chúng tôi định vượt qua đấy có thể tìm một ít cỏ tốt rồi nghỉ ngơi vài ngày chăng.

Trũi nhảy xuống nước, bơi sang. Bơi một quãng bỗng nhiên chìm nghỉm. Cả hai cái râu cũng không thấy ngo ngoe trên mặt nước, như bị  đột ngột rút chân xuống. Chốc, thấy Trũi ngoi lên, kêu váng rồi hớt hải quay lại. Tôi định thần nhìn kỹ thấy quanh đấy có luồng  sóng cồn đuổi theo. Một đàn cá săn sắt đương rầm rập kéo đến. Những cái đuôi cờ ngũ sắc bay hoa cả mặt nước. Vừa rồi mải bơi, chính  là Trũi bị mấy gã Săn Sắt ấy kéo tụt xuống. May, Trũi cố vùng thoát lên.

Bây giờ tôi mới kinh hãi nhìn dần ra khắp dọc sông, chỗ nào cũng thấy đông đặc cá Săn Sắt với những đuôi cờ múa rợp bóng nước.  Chúng lượn đi lượn lại, vẻ nghênh ngang, chặn đường. Cái này chắc có âm mưu gì đây. Rồi tôi thấy Săn Sắt kéo đến mép nước phía  chúng tôi, hằm hè toan nhảy hẳn lên bờ đòi choảng nhau, rất hung hăng. Thế này phải tìm cách thoát ngay mới được. ờ! có thể ếch  cốm lập ra mưu này, cái lão khoác lác một tấc đến trời mà cũng mưu lược gớm.

Lại vài mụ Diếc trắng trẻo, béo tròn con quay, lò mò đến. Các mụ tung tăng múa vây, múa gáy. Rồi mấy bác cá Ngão mắt lồi đỏ, dài  nghêu, mồm nhọn ngoác ra, ở đâu bơi chớp nhoáng đến, đỗ kề ngay bờ trước mặt, há miệng đợi đớp. Ôi chao, nếu không mau chân, bọn  này cứ thắt mãi vòng vây, chí nguy! Trũi lau tau mà đã thấy cuống.

Trũi nóng tính, nóng hăng thì cũng nóng nhụt! Chưa chi cả mà đã hốt. Tôi bảo:

– Khoan khoan liệu việc, nhốn nháo thì hỏng đấy. Bỗng Trũi lại tru lên:

– Kìa kìa.. lũ nữa đến…

Nhìn lên đầu sông thấy mấy bác cá Chuối đương lừ lừ tới. Bóng cá Chuối loáng cả dòng nước, răng nhe trắng như lưỡi cưa, nó lướt vào  đến trước mặt thì dòng nước đương trong vắt bỗng đen sạm như nền trời cơn mưa.

Phải tính việc tẩu ngay.

Nhìn sang bên kia sông, tuy xa, nhưng tôi cảm thấy nếu tôi cố thì có thể bay qua được. Tôi sẽ bay qua ngay trên đầu chúng nó.  Nhưng đôi cánh của Trũi ngắn thun lủn, không thể bay xa thế. Trong khi ấy, nếu còn trù trừ thì chết. Ðàn cá Chuối hung hăng sẽ  ngoi lên tận bờ bùn này đớp chân chúng tôi. Hoặc một thằng Chạch, một thằng Lươn có thể độn thổ lên ngay vũng bùn dưới chân chúng  tôi đứng đây.

Tại sao nên tai nạn như vậy? Về sau tôi mới hiểu chỉ vì cái thói nghịch ác và sự coi thường xung quanh của chúng tôi. Chẳng là bị  khích thế, cả xóm ếch Nhái đương buồn bã kia bỗng phát cáu lên và các xóm Cá ngoài này nghe phong thanh có hai thằng dế bơ vơ ở  đâu đến làm loạn sông thì cá kéo ra đánh đuổi đi.

Lúc ấy, tôi khom người xuống. Tôi đã nghĩ ra một cách. Tôi bảo Trũi trèo lên lưng. Tôi mím miệng nghiến răng, gắng sức bình sinh  cõng Trũi bay qua sông. Không cất cao mình lên được, tôi chỉ đủ sức bay là là mặt nước.

Cả đàn mấy chục các loại cá đuổi theo, chen nhau đánh sóng và quẫy đuôi, ngoáp miệng bắn nước lên đầy mặt tôi, ướt cánh và ướt cả  bụng tôi. Tôi chỉ núng cánh một chút, nó mà tợp được chân tôi lôi xuống thì tan xương cả. Lưng tôi nặng như cái cối đá đè. Tôi cố  sức, cố sức, cố sức… Cuối cùng, tôi lướt khỏi mặt nước, sang tới bờ bên này bãi cỏ. Tôi lăn kềnh ra bãi, trong khi Trũi bị hất tung  ngã tít đằng kia.

Trở dậy, trông bờ bên ấy đã thấy cả xóm ếch Nhái kéo ra. Tuy vậy, vẫn không thấy đại vương ếch Cốm đâu. Thêm viện binh! Bốn bác Cua  Núi đen sì như bốn cái xe bọc sắt to kềnh, múa lên những chiếc càng rất lớn. Tưởng nếu bị càng đó cắp thì bụng tôi có thiết giáp  cũng phải phòi ruột.

Nhưng chúng tôi đã qua được sông. Thách cũng chẳng mống cá nào dám lên bờ đuổi. Nghĩ cứng thế, nhưng tôi lại chợt nghĩ thêm: biết  đâu ai học được chữ ngờ, như cái lần Trũi bị cả xóm Bọ Muỗm bay qua sông sang đánh suýt chết đấy. Tôi vội bảo Trũi cùng nhau chạy  trốn ngay. Trũi cũng hiểu, chúng tôi biến rất nhanh.

Tuy vậy, trước khi chạy, vẫn làm oai ta đây, chúng tôi giơ càng lên, ri ri hát một bài. Trũi xỏ hai chân vào hai râu, cong cong  râu, làm hiệu giễu cợt. Giở trò trêu ngươi cái đã.

Nhưng bên kia bọn bên kia sông chưa kịp nổi giận thêm tôi đã kéo Trũi chạy một mạch đến tận hàng cây xanh xanh mờ mờ đằng xa.

--------------

Hàng cây, mà lúc còn ở ngoài bãi chúng tôi trông thấy mờ xanh xanh, là cánh rừng cỏ may. Bấy giờ mặt đất đương mùa hoa may. Chúng  tôi đi mịt mờ dưới bóng hoa may. Trông suốt bốn phía chân trời đâu cũng phất lên một màu trắng bàng bạc, xam xám những ngù hoa  may.

Trong rừng hoa cỏ may ấy ngụ những xóm Chuồn Chuồn.

Ðối với Chuồn Chuồn, họ Dế chúng tôi là láng giềng lâu năm. Hang Dế thường ở quanh bãi và gần hồ ao. Chuồn Chuồn hay đậu trên ngọn  cỏ cao bên bờ nước. Bởi thế, đã thành thói quen như bức tranh sơn thủy thì phải có núi, có sông, chàng Dế và chàng Chuồn Chuồn cứ  mùa hè đến lại gặp nhau ở bờ cỏ, anh đậu ngọn, anh nằm gốc. Trong đám cỏ, có khi nắng chang chang – Chuồn Chuồn thật khoẻ chịu nắng  – chúng tôi thường sôi nổi đàm luận việc đời, nhất là những chuyện đường xa.

Xóm ấy trú ngụ đủ các chi họ Chuồn Chuồn. Chuồn Chuồn Chúa lúc nào cũng như dữ dội, hùng hổ, nhưng kỳ thực trông kỹ đôi mắt lại rất  hiền. Chuồn Chuồn Ngô nhanh thoăn thoắt, chao cánh một cái đã biến mất. Chuồn Chuồn ớt rực rỡ trong bộ áo quần đỏ chót giữa ngày hè  chói lói, đi đằng xa đã thấy. Chuồn Tương có đôi cánh kép vàng điểm đen thường bay lượn quanh bãi những hôm nắng to. Lại anh Kỉm  Kìm Kim bấy lẩy như mẹ đẻ thiếu táng, chỉ có bốn mẩu cánh tí tẹo cái đuôi bằng chiếc tăm dài nghêu, đôi mắt lồi to hơn đầu, cũng  đậu ngụ cư vùng này.


These are the inner bark chunks of a red grape tree, the chunks are boiled in water to create a cleansing infusion for cleaning your vagina according to traditional Shipibo ways. Anyone that ever followed Dr Robert Morse’s work knows how he recommends grape fasting as a way to heal the body. https://www.instagram.com/p/B0QzY9sBJfM/


Họ nhà Chuồn Chuồn cứ miên man đi tha phương cầu thực, nhưng hễ khi trời sắp giông gió thì lại bay qua đồng hoa cỏ may tìm về tránh  mưa trong chân cỏ.

Chúng tôi vừa đến, đi suốt đoạn đường, thấy các làng Chuồn Chuồn ai cũng hớn hở trong xống áo mới tinh giữa hoa may. Họ đương sắp  đi. Tôi hỏi đi đâu. Ðáp rằng họ đi xem hội thi võ, trên trời, Chuồn Chuồn bay sát cánh rợp cả nắng. Cậu Kỉm Kìm Kim gầy còm chỉ  lượn được dưới thấp, nhưng cũng tung tăng ra dáng lắm. Tôi hỏi thêm thế thì như anh em chúng tôi muốn đi xem hội thi võ có được  không. Ðáp rằng có.

Thế là chúng tôi đi trẩy hội theo Chuồn Chuồn. Họ bay trên không. Chúng tôi đi dưới. Ðôi lúc khoái chí tôi cũng cất cánh bay  chơi một quãng. Trên đường còn gặp vo khối khách nô nức trẩy hội. Vui lắm. Cả những ông Niềng Niễng đen nháy quanh năm không ra  khỏi mép cái lá sen mặt nước cũng lịch kịch cất bước ra đi.

Sự tích hội thi võ như thế này:




Nguyên vì ở vùng cỏ, hàng năm đến mùa hoa may chín trắng bạc khắp miền thì có hội lệ. Năm ngoái, cụ Bọ Ngựa già yếu đã khuất núi.  Năm nay, dân cả vùng, nhân hội hoa may, mở luôn hội thi võ kén ai tài giỏi nhất để đứng ra coi sóc việc chung trong vùng. Ðó  cũng là phong tục lâu năm của miền cỏ may này.

Giữa vùng cỏ may, chân cỏ đỏ tía, đầu hoa xám trắng và lóng lánh dựng lên võ đài nguy nga cao, toàn bằng gỗ cây lau ngà vàng,  đứng cuối bãi trông lên cũng rõ mồn một. Ðài võ chắc chắn, đẹp, có ghế ông cầm trịch ngồi, trên lớp lá cỏ mật và treo từng chùm hoa  ké vàng mọng buông xuống, lắc lư trong gió.

Những hôm đầu là đấu loại. Nhiều anh Châu Chấu vừa nứt mắt đã bắng nhắng lên đài. Ngựa non háu đá, những gã ngông nghênh đó thật  ra chưa có nổi ba hột sức. Mới tự chân mình đá mấy cái cũng đã run rẩy cả người rồi đứng thở hồng hộc. Vì thế chỉ có các anh ấy tưởng  võ mình là tuyệt thôi, còn khách xem thì thấy cuộc thi đấu loạc choạc, ngấy, họ đi chơi hội hơn là đi xem võ.

Mấy ngày sau, võ đài mới bắt đầu rầm rộ. Bởi vì những tay võ kém đã bị lọc hết. Bao nhiêu cậu ti toe đều bạt xuống chân đài cả rồi.  Chỉ còn lại có hai tay cứng vào đấu vòng cuối là Bọ Muỗm và Bọ Ngựa. Hai tráng sĩ trong vùng đấy.

Sáng hôm ấy, trước khi ra xem thi đấu, tôi một mình dạo chơi quanh bãi, nhìn thiên hạ kéo tới xem hội, chật như nêm cối.

Những chị Cào Cào trong làng ra, mỹ miều áo đỏ áo xanh mớ ba mớ bảy, bước từng chân chầm chậm, khoan thai, khuôn mặt trái xoan như  e thẹn, như làm dáng, như ngượng ngùng.

Các anh Châu Chấu Ma thì mặt mũi rất xí nhưng chúa hay lơn tơn đón đường co kéo các nàng Cào Cào xinh đẹp vào trò chuyện vẩn vơ  trong vườn cỏ non – những hàng quán dọc đường.

Tôi thấy bụng đoi đói, tôi cũng tạt vào quán làm vài nhánh cỏ lót dạ. Ðông khách quá, Châu Chấu, Cào Cào, Bọ Muỗm, Bọ Ngựa rậm  rịch vào.

Bỗng mấy chú Châu Chấu Ma đang nhảy nhót khoe tài quanh các nàng Cào Cào, vội né giạt về một bên. Rồi trong cửa hàng chợt im  tiếng ồn ào. Tôi thấy trịnh trọng tiến vào một anh Bọ Ngựa. Người ngợm anh Bọ Ngựa này cũng bình thường thôi, nhưng chưa hiểu sao  anh làm ra lối quan dạng đến thế, anh cứ đi chân nhấc từng bước cao ngang đầu gối kiểu bước chân ngỗng, cách thức rất ta đây kẻ giờ  và hách dịch. Cái khấc cổ vươn ra. Cái mặt ngắn củn nhưng cái cằm vuông bạnh lên. Con mắt đu đưa tưởng như ai xung quanh chỉ còn có  việc thán phục nhìn anh ta. Hai sợi râu óng ả mấp máy phất lên phất xuống. Hai lưỡi gươm bên mạng sườn, lưỡi có răng cưa, luôn luôn  co vào trước ngực, ra lối ta đây con nhà võ đi đứng đúng thế võ, lúc nà cũng giữ miếng.

Trông bộ tịch anh ta như thế, nhưng tôi cũng không để tâm. Bởi vì tôi đã biết thường những anh tính hay khoe thì cái gì cũng ra  miệng hết và chỉ có ở miệng chứ trong bụng nhiều khi chẳng có cóc khô gì. Như anh này, chắc có mấy miếng võ xoàng thì đã trổ ra  tay chân mặt mũi cả rồi, chẳng còn gì phải chú ý nữa. Vả chăng tôi cũng đâu cần để mắt tới cái oai rơm rác và lố bịch ấy. Có nghĩa  là lúc đó tôi vẫn đủng đỉnh giữa cửa quán hàng cỏ như không biết có võ sĩ Bọ Ngựa đi vào. Thấy thế, Bọ Ngựa bổ luôn cho tôi một  nhát gươm vào đầu. Tôi đau điếng.

Tôi nhảy trái, đá hậu cú song phi. Hắn né được và co hai gươm định quạng tôi nữa. Thấy có xung đột, bao nhiêu khách hàng bỏ chạy  hết. Các chị Cào Cào hốt hoảng nhảy tung, rách cả vạt áo màu. Chỉ khổ bác Cành Cạch đã cao tuổi, lại to lớn chạy vướng cái áo dài  lụng thụng, ngã ngoẹo càng, nằm cong chân, xoã cánh, kêu trời kêu đất.

Nhưng gã Bọ Ngựa không xông vào giữa mà chỉ giơ gươm trỏ mặt tôi, bảo:

– Có giỏi chốc nữa lên đài.

Tôi cười khểnh, nói lịch sự mỉa mai:

– Rất hân hạnh.

Sau đó Bọ Ngựa, thật tức cười, lại trịnh trọng khuỳnh khuỳnh kiểu bước chân ngỗng đúng như lúc nãy. Nhưng bước ra, đi cút luôn mất.  Ðám đông dần trở lại, quán cỏ lại chen chân mới vào được. Bây giờ họ xúm quanh tôi, Bác Cành Cạch ngã lúc nãy dạy được, nhô cái  mũi nhọn đến, thở hổn hển nói:

– Chú mình ơi! Chú mình dại thế! Chắc chú mình ở xa đến, chưa biết. Ông ấy là cháu đích tôn cụ võ sư Bọ Ngựa, cả vùng này không ai  dám đụng đến cái lông chân ông ấy đâu. Ông ấy phen hày hẳn tranh được chân trạng võ nối chức cụ võ sư Bọ Ngựa rồi. Chú mày biết  điều thì mau mau tránh đi nơi khác là hơn cả.

Tôi nói:

– Cảm ơn chư vị. Bình sinh trên đời tôi không hề biết sợ lời đe doạ nào cả.

Bác Cành Cạch còn làu bàu phàn nàn cho tôi là gà dở và nói “chú mình gở chết hay sao ấy”.

Tôi ở quán bán cỏ ra. Lời lẽ nhát sợ của bác Cành Cạch nọ làm tôi khó chịu. Tôi phải bước vào rừng cỏ ngắm làn hoa may đương tràn  ngập trong gió phơi phới cho tĩnh tâm lại.

Khi trở vào đám hội thì võ đài đương vào cuộc thi tài.

Tôi rất ngạc nhiên khi thấy Trũi đứng sừng sững trên đài, sắp đấu với anh Bọ Muỗm. Thì ra chú Trũi nhà tôi bấy lấu vẫn còn căm nhà  Bọ Muỗm. Cái trận đòn của các mụ Bọ Muỗm nanh ác ngày ấy vẫn chưa thể quên! Còn căm nặng đến độ bây giờ chỉ gặp một gã Bọ Muỗm xa lạ  cũng khiến Trũi nổ máu đòn thù. Trũi lên đài ngay.

Gã Bọ Muỗm kia đã đánh ngã mấy địch thủ nhép hôm qua, đương nhơn nhơn ra vẻ. Thực ra gã cũng không phải tay vừa. Người gã xanh rực  và vạm vỡ, bắp chân bắp càng bóng nhẫy, mập mạp. Lưng gã gờ lên rắn chắc, và đôi cánh màu lá cây làm thành chiếc áo giáp che kín  xuống tận đuôi. Ðằng đuôi, mắc thêm lưỡi gươm cong hoắt. Ðầu gã lớn, mút nhọn lại, húc rất khoẻ. Hai vành râu trắng phau. Ðôi mắt  to hó như mắt cá. Hai tảng răng thì đen và nhọn khoằm khoặm.

Nếu không có Trũi lên đài thì Bọ Muỗm được đấu thẳng với Bọ Ngựa để tranh chức trạng võ.

Hai võ sĩ ra đài.

Cụ Châu Chấu già lụ khụ đã bạc cả lưng, cái gân đen kẻ nổi gồ trên trán, ra ngồi cầm trịch.

Trũi và Bọ Muỗm, sau khi mỗi anh đi một bài võ ra mắt như các tay đô vật múa lên đài rồi đứng lại, ngó nhau một giây, rồi từ từ  đưa chân lên vuốt râu đàng hoàng mấy cái, rồi bất thình lình ập vào đấu đá liền. Trũi sử đôi càng khéo lắm. Từ ngày ra đi, Trũi  học thêm được nhiều miếng võ, đường quyền coi ngoạn mục và kín. Bọ Muỗm kia thì không cần võ, chỉ cậy sức, cứ lăn xả vào thọc gươm và  cắn lia lịa. Nhưng Trũi uyển chuyển và nhanh hơn, tránh được cả. Loanh quanh một lát, Bọ Muỗm đã mệt phờ. Bấy giờ Trũi mới mở sức.  Trũi nhảy phóc lên, đưa hai quả trùy càng ép bẹp vỡ cặp kính bảo vệ mắt của Bọ Muỗm rồi thúc thêm một cái đá làm gã kia ngã ngửa,  rướn lưng mấy lần mà không dậy được.

Cụ Châu Chấu cầm trịch thong thả bước tới dắt chàng võ sĩ được trận ra một bên và tuyên bố kẻ thắng trận. Cả bãi xôn xao. Vừa hoan  hô, vừa lạ lùng vì chưa ai biết võ sĩ Trũi tài giỏi ấy ở đâu ra. Cụ Châu Chấu già cầm trịch nâng cái loa dài tết bằng lá cỏ ấu, nói  xuống đài:

– Võ sĩ Dế Trũi thắng võ sĩ Bọ Muỗm. Bây giờ các võ sĩ trong thiên hạ đã đông đủ về đây, ai lên đấu với võ sĩ Dế Trũi:

Tiếng ông cụ gọi loa vang đài, ai nấy lặng yên nghe, lặng yên nghe. Bỗng một tiếng đáp vang động: “Có ta đây!” Rồi anh chàng Bọ  Ngựa ban nãy vừa lôi thôi với tôi, nhảy vót lên. Cơ nguy cho Trũi, vì xem anh chàng Trũi đã có vẻ mệt. Vả lại, thấy Bọ Ngựa ngông  ngáo, nhớ chuyện ban nãy ở quán hàng, cái bực mình trong tôi tức tốc trở lại.

Tôi nhảy phắt lên đài, quát:

– Khoan khoan, đây trước đã. Nhớ hẹn chứ?

Bọ Ngựa lùi lại rồi “à” một tiếng rõ to, nghênh hai thanh gươm lên – vẫn một điệu tự cao tự đại như thế. Lại như lệ trên trường đấu  ngày ấy, trước khi vào cuộc, mỗi bên biểu diễn một vài đường quyền, theo sở trường mình. Bọ Ngựa đứng vươn mình, đi bài song kiếm.  Bóng kiếm loang loáng, mù mịt như hoa may điệu bộ khá đẹp mắt. Tôi chẳng cần đi bài gì hết. Tôi đứng nghiêng người về đằng trước,  hếch hai càng lên. Cứ hai càng ấy, tôi ra oai sức khoẻ, đạp phóng tanh tách liên tiếp một hồi, gió tuôn thành từng luồng xuống  bay tốc cả áo xanh áo đỏ các cô Cào Cào đứng gần.

Lúc vào đấu, Bọ Ngựa cao nên lợi đòn. Hai gươm hắn bổ xuống đầu tôi chan chát. Nhưng đầu tôi đầu gỗ lim tôi lựa cách đã, không vần  gì hết. Còn tôi đoản người, tôi nhè bụng hắn mà đá, khiến có lúc hắn phải hạ gươm xuống đỡ, mất đà, đâm loạng choạng. Biết không  chém vỡ được đầu tôi, hắn liền đổi miếng ác, co gươm, quặp cổ tôi. Hắn định lách gươm nghiêng vào khe họng – chỗ hiểm, cuống họng tôi  có khe thịt dễ đứt.

Thấy thế nguy, tôi gỡ đòn, cúi xuống, thúc nhanh một răng rất sâu vào bụng hắn.

Choáng người, Bọ Ngựa nhảy lộn qua lưng tôi. Tôi cũng chỉ đợi có thế. Vừa đúng là càng – lừa vào miếng võ gia truyền của nhà Dế,  tôi lấy tấn, đá hậu đánh phách một đá trời giáng vào giữa mặt anh chàng. Chàng Bọ Ngựa kiêu ngạo rú lên một tiếng, bắn tung lên  trời, rơi tọt ra ngoài võ đài, ngã vào đám đông xôn xao.

Tôi đã hạ địch thủ một cách vẻ vang, trong khi dưới đám hội còn đương ồn ào nhốn nháo vì không ai ngờ võ sĩ Bọ Ngựa giỏi võ nhất  vùng đồng cỏ lại thua nhanh và thua đau như thế và thua bởi một chàng Dế Mèn lạ mặt ở đâu đến. Còn chưa ai hết lạ lùng thì cụ Châu  Chấu cầm trịch lại ra, trịnh trọng giơ loa lên, ba lần đều đặn, hô vang vang xuống:

– Tôi xin hỏi đông đủ các võ sĩ trong thiên hạ tề tựu quanh võ đài, có còn ai lên đấu nữa chăng?

Cả đám hội im lặng. Cụ Châu Chấu cầm trịch lại hô tiếp.

– Bây giờ trận đấu tranh hùng kết thúc. Võ sĩ Dế Trũi đấu với võ sĩ Dế Mèn!

Ơ hay, tôi sẽ đấu võ với Trũi? Tôi nhìn sang Trũi. Vừa lúc Trũi lại nhìn tôi. Chúng tôi cùng nhau đi đến đất này để đấu võ tranh  quyền với nhau ư? Bất giác, tôi tiến lại Trũi, đứng thẳng hai chân trước, khoác vai Trũi, hai chúng tôi hướng xuống dưới võ đài.  Khắp bãi, rờn bóng hoa may, tụ tập hàng nghìn vạn các loài trong vùng đi xem hội võ, tôi nói to lên rằng:

– Thưa chư vị, anh em chúng tôi vừa từ phương xa tới đây. Cái chủ đích của chúng tôi thật không định tranh lèo giật giải gì ở đất  này. Ðất lành chim đậu, thấy phong tục vui thì chúng tôi đến góp mặt vui chung mà thôi. Bây giờ, cái điều chúng tôi không chờ  đợi là anh hùng bốn phương đều đã lui cả mà nhường quyền đọ sức cao thấp sau cùng cho anh em chúng tôi. Với sự tranh đua, anh em  chúng tôi xin lỗi, không thể. Bởi vì sao, chắc chư vị đã rõ. Còn về ngôi thứ trách nhiệm thì anh em chúng tôi xin lỗi, không dám.  Anh em chúng tôi chỉ là hai kẻ giang hồ thấy đất quê đẹp đẽ thì ghé tới trên đường đi mà không định ý ở đâu cả. Dám xin chư vị xét  cho.

Tôi vừa nói xong, ở dưới vang lên tiếng the thé, tiếng ầm ầm. Kẻ thì bảo nhất quyết phải mời chúng tôi ra thi đấu, lệ vùng này  nghìn xưa như thế. Kẻ thì rằng thôi. Sau có một ban bô lão thượng thọ của đám hội cắt ra trông nom võ đài – một cụ Châu Chấu, một  cụ Bọ Ngựa, một cụ Cành Cạch, một cụ Cào Cào, một cụ Niềng Niễng, các cụ ra nói với chúng tôi rằng:

– Thưa hai võ sĩ, đất lành chim đậu, hai võ sĩ qua đây, lại có lòng lên thi thố tài nghệ siêu quần, thiên hạ không còn ai đối  địch nổi, thật là phúc cho chúng tôi.

Hai võ sĩ là anh em một nhà, lại là những tay võ đồng môn với nhau thì càng may cho chúng tôi và như thế, cái lệ đấu có thể bỏ đi  được. Nhưng việc chịu trách nhiệm về đứng đầu vùng này thì phải có một trong hai ngài nhận. Ðó là phong tục đất chúng tôi hàng bao  đời vẫn chọn tài như thế.

Tôi thì hết lời từ chối. Còn Trũi đứng lặng không nói ( về sau tôi mới biết sự im lặng của Trũi có một ý nghĩa riêng ). Tôi đành  phải nhận. Thế là cả đám hội ầm vang lời hoan hô tôn chúng tôi lên là chánh phó, thủ lĩnh đứng đầu các làng trong vùng cỏ may. Cả  đám hội xô vào làm kiệu rước hai tôi lên, đi chen trong đám đông và hoa cỏ may.

Các chị Cào Cào áo xanh áo đỏ làm duyên đứng nghiêng khuôn mặt dài ngoẵng nhìn theo chúng tôi một đỗi rất lâu, tỏ vẻ mến phục. Tất  cả tung cỏ, tung hoa may. Ðồng dân cử bài hát rầm rộ. Rồi cùng nhau mừng rỡ cầm tay khiêu vũ. Cành Cạch với Châu Chấu, Cào Cào với  Bọ Muỗm nhảy múa linh đình. Từ trong hang, trong lá ra đến ngoài bãi, ngoài đồng, hoa may trắng suốt chân trời.

Tôi bước lên đài, uốn éo múa càng, rung cánh, trổ một bài hát rất du dương. Trũi thì hớn hở hơn ai hết. Thì ra lúc nãy cu cậu im  không nói gì chỉ sợ tôi từ chối cái địa vị thủ lĩnh. Ðến khi thấy tôi nhận lời, Trũi ra hét inh lên, múa rối rít hai càng khiến  những bác Cành Cạch nhút nhát, mới đầu cũng sợ đáo để!

Chúng tôi ở lại vùng cỏ may được ít lâu. Ngày lại ngày…

Tôi thì hơi buồn và băn khoăn. Nể quá mà phải nhận lời đó thôi. Tôi vẫn chỉ muốn được thoả chí nguyện của mình là đi đây đi đó, thế  đủ sung sướng rồi. Trái với tôi, Trũi rất thú vị. Ðứng đâu Trũi cũng tỏ vẻ khoái cứ nghiêng râu mép lên gảy đàn tưng tưng. Tôi bảo  Trũi: “Ðừng tưởng thấy an nhàn mà vui! Huống chi đời ta còn trẻ mà sống chỉ có an nhàn thế này thì buồn tẻ khác nào khi chúng ta  còn ở trong hang quê nhà”.

Quả nhiên mùa đông năm ấy xảy ra một việc biến lớn.

Cỏ may trên bờ đường đi đã tàn. Những con bò gầy tọp, dũi toét cả mũi cũng chỉ vơ được mấy chiếc rễ cỏ khô. Người trong làng ra đồng  gặt lúa. Cánh đồng vàng rượi xưa kia đã được người ta lấy liềm gặt, bó từng lượm, cái đòn xóc đâm ngang thành từng gánh, quẩy về  sân. Trên mênh mông chỉ còn trơ lại những gốc rạ khô.

Thế là mùa rét đã tới. Cánh đồng vắng ngắt, màu xám trên trời và màu xám dưới đất đã liền vào nhau và ở giữa có gió suốt đêm ngày.  Trẻ con ra ngoài đồng thì lạnh tai và đỏ hắt mũi. Rét quá, rúm cả chân. Chẳng ai có thể trốn trên đồng không được. Phải đi tìm nơi  tránh rét. Nếu cứ phong phanh giữa trời suốt mùa đông thì đến chết cả.

Bởi thế, đã thành thói quen từ xưa, cứ mùa rét đến thì các loài sống trong vùng này lại bỏ cánh đồng lạnh ngắt lạnh ngơ mà lũ lượt  đi kiếm nơi tránh rét. Có khi phải tranh cướp, đánh nhau mới tìm được chỗ. Bởi vì trong mùa rét, nhiều loài áo mỏng khác cũng đi  tìm kiếm chỗ ở ấm như thói quen của họ nhà Châu Chấu.

Tôi bảo Trũi:

– Có phải thế không, Trũi thấy nhé. Gió thổi hun hút đến nỗi con kiến chỉ có cái chân bé tẹo bằng hạt bụi cũng phải ra sức đào sâu  xuống dưới đất mới tìm được tí hơi đất ấm. Lo cho cái sống cũng gay lắm đây. Kìa bao nhiêu loài phải xô đẩy nhau đi tìm chỗ trú ẩn  trong mùa đông tháng giá. Mùa đông khủng khiếp đã đến rồi.

Tôi bảo bà con rằng:

– Cái rét đã đến ngoài đồng, chúng ta hãy kíp đi tìm nơi ấm áp mà trú ẩn.

Chẳng mấy lúc, không còn thấy bóng ai ngoài trời. Bọn Chuồn Chuồn cánh giấy – các cậu Kỉm Kìm Kim ốm o biết mình không chịu nổi nửa  cơn gió giật đã mò mẫm đi trước. Anh em nhà Niềng Niễng thì lặn xuống bùn nằm với các anh Gọng Vó, bên cạnh những Cua, những Ếch lo  rét đương vội vã đắp những cái mà đất lô nhô bát úp quanh các bờ đầm ao.

Châu Chấu, Cào Cào, Bọ Ngựa, Bọ Muỗm thì đi tìm khe dứa dại. Trong mùa đông, chỉ có những bụi dứa dại xanh nguyên, mỗi chiếc lá dứa  vẫn dỏng cái tai cứng lên nền trời xám. Kẽ lá dứa sâu hoắm, ta có thể chúi được vào đấy, nằm chổng đuôi ra, bất chấp mưa gió bên  ngoài. Cứ vào đấy, nằm yên đấy, cho đến khi những ngày xuân trở lại, thấy cái ấm đậu xuống hai vai và nghe tiếng con chim chích  kêu vui chanh chách ngoài khe lá, lúc ấy mới bước ra.

Chúng tôi đi tìm chỗ ở mùa đông.

Tìm nơi ở mùa đông là việc năm nào cũng phải làm và bao giờ cũng gian nan. Bởi vì không bao giờ và không có chỗ nào cứ đến là đã  sẵn chỗ. Hơn nữa, ai cũng muốn được nơi ở tốt nhất. ấy thế là cái cảnh tranh giành, lắm khi đổ máu, lại thường diễn ra.

Ngoài đồng, mây đen cuồn cuộn, gió thổi tan tác, mặt đất và gió lùa cái giá buốt vào tận ruột gan, không ai muốn cất một bước. Thế  mà vẫn phải đi, đi mãi đi mãi chưa tìm thấy đâu chỗ ẩn náu. Khe lá nào, gốc cây nào cũng vô khối các loài áo mỏng vào tránh rét,  trốn rét ròng rã nhiều ngày, mỗi sáng ra lại bỏ lại ven đường mấy cái xác bạn chết cóng rất đau thương mà vẫn chưa tìm ra được nơi  trú ngụ. Lại phải đánh nhau thôi, một là sống, hai là chết, có đánh nhau mới giành được chỗ ở – tiếng bàn tán và than thở như thế  trong đám đông, mỗi lúc càng xôn xao.

Một ngày kia, chúng tôi đến một bờ đê, trông xuống thấy nhiều bụi dứa, trong lòng rất hồi hộp. Mấy anh Bọ Muỗm cao cẳng rón chân đi  thám thính xem ai đã đến trú chưa. Quân thám thính về báo, các kẽ lá đều ở đầy Châu Chấu Voi.

Cả đoàn sau lưng chúng tôi la ó và kêu rầm rĩ. Họ không muốn đi, họ không đi nổi nữa. Tôi trù trừ một lát rồi sau thấy đám đông  ùn lên, nhốn nháo, thế là tôi cũng hùa theo, chúng tôi kêu lên “Cứ xông vào, đánh nhau thì đánh nhau, chết thôi”. Thế là chúng  tôi kéo đến từng góc dứa, leo lên lách vào khe lá đầy gai phủ ở ngoài, cứ cắn đuôi từng Châu Chấu Voi mà lôi giật lùi. Khó chịu,  bọn Châu Chấu Voi nhảy ra. Thế là chúng tôi, một phần tranh nhau nhảy xuống khe dứa hở, một phần thì xúm lại đánh cho Châu Chấu  Voi không quay vào được nữa. Bọn Châu Chấu Voi khoẻ lắm. Anh nào cũng hùng dũng và hiên ngang. Chẳng trách họ được tên là Châu  Chấu Voi. Một Châu Chấu Voi đương thoắt xông tới. Sắc xanh biếc, lưng cao nhọn và ngang ngạnh lên. Hai chiếc râu trổ ra dữ như hai  cái đinh. Ðôi càng đã to, to hơn càng tôi mà quanh bắp vế còn lắp chi chít những mũi mác nhọn như chông.

Chẳng cần biết mình có thể yếu thế, bởi vì mỗi Châu Chấu Voi to gấp mấy lần Châu Chấu thường, nhưng chúng tôi cứ lăn xả vào vây  đánh. Chúng tôi đương liều. Choảng nhau rối rít đến tận chiều cũng chưa ngã ngũ bên được bên thua. Ðám Châu Chấu đã chui được vào  chiếm khe dứa sợ quá, lại nhào cả ra. Thế là chúng tôi vẫn long đong ngoài trời rét, buốt lên tận óc. Nhưng có điều đau đớn hơn  cho tôi là Trũi đã bị Châu Chấu Voi bắt làm tù binh rồi. Cả đêm tôi trằn trọc lo không chợp được mắt. Mờ mờ hôm sau, chúng tôi  đông hàng nghìn lại kéo vào vây rặng dứa. Phải cứu Trũi kỳ được. Nhưng khi xô lên, nhòm vào khe lá, thì lạ thay! Các khe lá rỗng  tuyếch, không còn một bóng Châu Chấu Voi! Họ đã rút đi từ lúc nào.

Có lẽ sợ chúng tôi đông quá và cái hăng thí mạng của chúng tôi, họ đã ra đi từ ban đêm. Thôi thế dù sao cũng là xong nỗi lo mùa  đông. Nhưng được chỗ ở ấm rồi mà tôi cứ ngao ngán cả người. Bởi vì, lúc rút chạy, Châu Chấu Voi đã mang đi cả tù binh. Trũi mất  tích rồi. Chúng tôi được vào ở kín cả trong bụi dứa. Ngày đêm trên đầu khe, gió hú, gió gào bên ngoài nhưng trong vẫn ấm áp và êm  đềm như thường.

Khi nơi ăn chốn ở đầy đủ cả, tôi mới nói rằng:

– Trong trận xung đột vừa rồi, chẳng may em tôi bị cầm tù, phải Châu Chấu Voi đem đi đày đến tận xứ sở nào không rõ. Ngày trước anh  em tôi đã thề cùng nhau sinh tử.

Bây giờ cơ sự xảy ra thế này, tôi không đành tâm ngồi lại đây. Tôi phải đi tìm, cùng trời cuối đất nào tôi cũng đi, đi bao giờ gặp  được nhau thì anh em tôi lại trở về đây. Ai nấy xúm lại can ngăn, không muốn tôi đi. Nhưng chí tôi đã quyết. Tình em nghĩa bạn, ở  yên một mình sao đặng. Vả lại, tù chân một chỗ cũng đã lâu, tôi nóng ruột lắm.

Biết không thể lưu tôi lại, ai cũng ngao ngán. Họ dặn đi dặn lại rằng hễ tìm được Trũi thế nào cũng phải trở về.

Tôi nói:

– Chư vị hãy yên tâm, mặt đất rộng mà hẹp, thế nào chúng ta cũng còn khi gặp nhau.

Chia tay lưu luyến, tôi cũng bịn rịn, tuy không khóc nhưng lòng nao nao, bùi ngùi.

Cảnh biệt ly bao giờ chẳng vậy.

Thế là, khăn gói gió đưa, tôi lại bước chân đi. Bấy giờ đã tàn mùa hoa may từ lâu. Trên đồng bãi và bờ ruộng chỉ còn xám mờ nhưng  đám gốc rạ và gốc cỏ của trẻ chăn trâu đã nhổ lên, chất đống, để đốt sưởi. Ðám khói cỏ xanh ngắt trong vòm trời gió buốt, càng đượm  vẻ thê lương. Trời đông rét run cánh, run râu thế mà cả làng Châu Chấu nhảy ra ngoài khe lá, lũ lượt đội gió tiễn tôi mấy dặm đường  mới chịu trở lại.

Ngược lên phía Bắc, cứ ngắm những bụi cây trơ trụi xa xa mà đi tới. Bước cao bước thấp, đi hết mùa đông sang mùa xuân. Vào những  đêm hè xanh trong, trăng sao vằng ***, tôi càng cảm thấy mình lẻ loi. Có khi, tôi ngửa mặt lên vòm trời không, gọi to:

“Em ơi! Giờ em ở đâu?”

---------------

Ròng rã mấy mùa rồi, không nhớ mà cũng không nghe được một tin tức gì về Trũi. Càng đi càng thăm thẳm, càng sốt ruột. Ðã qua  nhiều miền khác nhau, đã hỏi thăm nhiều dân cư dọc đường. Chẳng ai biết tông tích đoàn Châu Chấu Voi bí mật kia.

Lủi thủ một mình, chán không! Nghĩ lại xưa kia, điếm cỏ cầu sương, vui buồn anh em có nhau, gian nan biết mấy cũng vẫn vững lòng  tin, mà lúc cùng nhau sung sướng thì càng hể hả, nức lòng. Than ôi! Giờ một mình tôi lẽo đẽo đường dài, đơn thân độc bóng. Có lúc  nhớ lại cái lần cùng nhau trên chiếc bè sen nhật lênh đênh lạc ra nước lớn, Trũi khẩn khoản đưa càng của mình cho tôi ăn; nước mắt  tôi muốn ứa ra. Thấm thoắt, lại đã hết một mùa đông. Những ngày xuân mới bắt đầu. Chim hót ơi ới đầu cành. Ánh nắng lụa nõn nà phủ  trên cây. Những vạt cỏ trở lại non tươi, xanh mơn mởn khắp mặt đất, cỏ xuân nhấm ngọt như đường phèn.

Một hôm tôi dừng chân bên dòng nước nhỏ. Bỗng nghe trên những cây dó đã nở hoa như treo đèn thơm khắp cánh rừng trước mặt, có tiến  ồn ào. Không phảit tiếng ong rạo rực tìm hoa làm mật mà những tiếng nhịp nhàng khi xa khi gần, khi réo rắt như ai đàn hát. Trèo  lên tảng đá, nhìn sang bờ bên kia thì thấy trên một đám cỏ non, có đàn các cô Bướm Vàng, Bướm Trắng, Bướm Hồng, Bướm Nhung đang nối  cánh nhau, nhảy thành vòng. Vừa nhảy vừa hát. Thì ra đấy là tiếng hát ca ngợi mùa xuân.

Cảnh hay như vẽ

Gió hây hây

Ðào mỉm miệng

Liễu giương mày

Bướm nhặng bay

Trong bụi

Oanh vàng ríu rít

Ðầu nhà

Én đỏ hót hay (*)

Có mấy anh chàng Ve Sầu, mặt mũi vằn vèo và sần sùi mà lại ăn mặc chải chuốt, đứng nghẹo đầu cạnh các ả Bướm, đương giơ cái mõ dưới  cánh lên kéo bài o o i i dài dằng dặc, hoà nhịp với lời ca trong trẻo của các cô Bướm.

Chắc bọn này đương tiệc múa hát mừng xuân mới. Ðầu mùa xuân, đâu đâu cũng tưng bừng tết nhất. Lòng tôi bỗng vui lây. Tôi bèn leo  lên cao để nghe tiếng hát cho được thú vị hơn. Tôi trông thấy bên cạnh các ả Bướm và chàng Ve Sầu còn có những đàn Bướm khác ở các  Bãi cỏ phía xa cũng đương múa hát. Tiếng hát mùa xuân trong như nước chảy, ngân vào mãi rừng xanh.

Tôi trông kỹ lại thấy ra đàn Bướm nhảy múa xung quanh một bác Xiến Tóc to gồ, cao lêu đêu. Mỗi chân bác Xiến Tóc nắm một Bướm  Trắng, sáu chân bác Xiến tóc nắm sắu chị Bướm Trắng, tất cả Bướm Trắng cùng múa cánh lên như tung hoa. Lúc cái đầu kềnh càng của  bác Xiến Tóc ngả xuống, khiến cho chiếc đàn tự nhiên xưa nay bác vẫn đeo trong cổ bỗng kêu lên kin kít, thì hai ả Bướm Trắng khác  lại đến nghịch ngợm leo lên vít khấc râu cứng quếu của bác. Họ nhảy và hát linh tinh vui nhộn như trẻ nhỏ chơi.

Tôi nghển xem bác Xiến Tóc ấy thế nào, già trẻ ra sao mà nghịch lối con nít thế. Xưa nay, các tay Xiến Tóc vẫn được tiếng đạo mạo  cơ mà. Nhìn kỹ… Tưởng ai! Hoá ra cái bác Xiến Tóc năm xưa. Vẫn nét mặt nghiêm nghiêm và trầm tĩnh, vẫn hai tảng răng đen sắc ghê  gớm, xiến đứt cả tóc – vì thế mà bác được tên là Xiến Tóc, và bác đã chỉ xiến một cách nhẹ nhàng mà hai sợi râu tốt đẹp trên đầu  tôi đã đứt béng từ ngày ấy.

Tôi xin thưa cùng bạn đọc yêu quý của tôi rằng, từ ngày bị bác Xiến Tóc cắt mất râu, tuy vì thế mà vẻ mặt tôi có già đi một tẹo,  nhưng không, tôi chẳng mảy may thù oán bác Xiến Tóc, mà tôi còn phục bác là người giỏi, bụng dạ rộng rãi, đường đường một đấng anh  hào côn quyền đủ sức, lược thao gồm tài, tôi đã học được ở bác ấy nhiều điều lắm. Thế mà thật lạ lùng chẳng ngờ cái bác Xiến Tóc gai  ngạnh, khắc khổ, tư lự, mấy năm chả gặp, bây giờ hoá ra ngây ngô, nhí nhảnh nỡm đời, đi rong chơi dông dài với lũ Ve Sầu và Bướm.  Mà điệu bộ này thì họ tiệc tùng thâu đêm suốt sáng đây. Tôi đã từng chơi những trò phí thì giờ này, tôi chẳng lạ!

Còn đương phân vân, biết có nên sang ra mắt bác Xiến Tóc hay là lủi đi, thì bỗng cả mấy ả Bướm cùng im bặt tiếng. Rồi các ả hốt  hoảng chạy trốn hết vào nép im trong bụi. Xiến Tóc lừ đừ ngẩng đầu lên, ề à hỏi:

– Ai đâu mà các em sợ thế?

Xiến Tóc cũng đảo đầu tìm kiếm, ngơ ngác. Chợt trông thấy tôi, bác ta định thần nhìn kỹ rồi reo lên:

– A Dế Mèn! Ði đâu thế? Xuống đây đã nào! Có phải Dế Mèn đấy không?

Dáng chơi bời, thức đêm nhiều, mắt Xiến Tóc có phần toét nhoèn, nhìn mãi vẫn chưa nhận rõ hẳn ra tôi. Tôi liền bay sang. Bấy giờ  bọn Bướm núp trong bờ cỏ mới ngấp nghé mon men ra gần. Lúc nãy, đương hát, thoáng thấy tôi lạ, họ sợ xấu hổ, bỏ chạy. Bây giờ biết  quen, lại sấn đến và quá bạo, cứ khoác vai tôi ra nhảy múa. Nhưng tôi từ chối khéo. Cả bọn họ lại chạy ra bãi nô giỡn, những chàng  Ve Sầu lại lên tiếng nhạc mõ o o i i rầu rĩ nhức tai.

Còn lại hai chúng tôi, Xiến Tóc nhìn tôi, hỏi đùa:

– Thế ra bộ râu chú mình không mọc nữa nhỉ?

Tôi lắc đầu mỉm cười. Tôi hỏi thăm Xiến Tóc độ rày ra sao mà coi bộ rỗi rãi nhàn hạ thế. Bác Xiến Tóc thở dài, đàn răng đàn cổ lên  điệu xiến ken két, rồi im, ra chiều tư lự. Một lát sau bác cất tiếng buồn buồn kể rằng:

– Có phải anh trông tôi bây giờ khác trước nhiều lắm không. Chính tôi, tôi cũng tự cảm thấy khác lắm. Tôi cũng biết tôi đổ đốn đâm  ra chơi bời dông dài, thế mà tôi buồn bã không muốn xoay chuyển nữa. Cuộc đời éo le đã khiến tôi chán lắm, chán quá. Sau ngày gặp  anh, tôi đương rất khoái vì ngày ấy tôi đã làm được nhiều việc ngẫm nghĩ thấy có ích. Một lần, tôi đến xóm kia. Không dè ở đấy  đương có cuộc săn đuổi do bọn trẻ nghịch ngợm khởi xướng, cũng như cái bọn trẻ đã bắt anh để đem đi đánh chọi và làm giải thưởng bóng  đá ấy. Ðó là mấy cậu bé trong thành phố về quê mùa hè, chúng đi rình bắt Xiến Tóc về chơi. Chẳng may, tôi bị bắt một buổi sớm trên  một cành dướng.

Bọn trẻ đem tôi về thành phố. Ðường xa những bao nhiêu ngày, tôi không biết. Vì họ nhốt tôi vào một cái hộp kín bưng cùng với năm  bạn xấu số nữa và cứ nhốt mãi như thế. Có bạn tôi chết vì ngạt thở. Vốn quen ăn vỏ cây, giờ bọn trẻ ngớ ngẩn không biết gì về thức ăn  Xiến Tóc, cứ nhét đầy cỏ, có khi cả cục cơm, miếng xương, tôi không nuốt được. Tôi nhịn ăn hàng tháng trời mà họ cũng vô tình,  không biết nốt.

Rồi may quá, trốn thoát. Bởi vì, tôi để ý xem xét biết cái giam tôi bằng giấy bìa cứng. Từ hôm ấy tôi cứ nhả nước bọt vào một chỗ  rồi lấy chân bới, cái tưởng giấy mủn dần. Một hôm tôi cố lấy tất cả bao nhiêu hơi sức còn lại, húc một cái, thế là cả người tôi bật  lọt ra ngoài hộp. Tôi giương cánh, bay thẳng. Phúc đức mà tôi vẫn còn nguyên hai chiếc cánh lót lụa. Các bạn khác đều bị lũ trẻ  nghịch ngợm bứt cụt hai cánh lụa mỏng ở trong thành thử, dang hai cánh tàu bay vỏ gỗ ở ngoài ra, không thể cất mình lên được, không  bay được. Rồi các bạn ấy bò trốn đi đâu tôi không biết.

“Tôi bay bất kể ngày đêm. Ròng rã lâu ngày lắm mới vượt ra khỏi được cái thành phố xù xì u ám gớm ghiếc ấy. Khi ra đến vùng có vườn  bãi xanh tươi, thì, vì lao lực quá không cố hơn được nữa, tôi ốm mất mấy tháng. Không hiểu sao lúc ốm khỏi thì tính nết thay đổi  dần, tôi sinh chán đời, không thiết gì nữa. Có lẽ vì đã có phen quá sợ, có lẽ vì buồn. Thôi tôi mặc kệ cả. Tôi tìm về nơi am thanh  cảnh vắng này. Tôi bỏ ăn vỏ cây, tập ăn cỏ thanh đạm cho dễ kiếm và tự coi như mình đã đi tu. Ngày tháng tiêu dao, bạn cùng mây  nước, khong gặp ai, không quản ai, chỉ còn biết rong chơi với bồn mùa cảnh, bốn mùa tình, bỏ thói quen soi gương ngắm mặt, cố quên  biết trời đất ngoài kia bây giờ thay đổi vần xoay thế nào… Từ bấy tới nay…”

Im lặng. Nghe mà não lòng! Cái lão chán đời này bị một vố đau điếng thì kệch chứ gì. Có thế mà không cắt nghĩa được tại sao, rõ  chán! Rồi Xiến Tóc gật gù hỏi tôi, vẫn giọng rầu rĩ:

– Còn anh, chẳng hay bấy lâu nay anh mưa gió đường đời ra sao?

Tôi cũng kể gót đầu cho Xiến Tóc nghe. Chốc chốc, bác chán đời lại điểm vào câu chuyện một tiếng thở dài nghe đến phát phiền. Tới  đoạn tôi bỏ khe dứa trú đông đi dò la tin tức Châu Chấu Voi để tìm Trũi thì Xiến Tóc nói:

– Châu Chấu Voi? Châu Chấu Voi! Nhớ ra rồi. ờ ờ… Cách đây ít lâu. Châu Chấu Voi đi qua có tạt vào đây. Ừ thấy có cả một gã Dế  Trũi…

– Thế a?

– Ừ Dế Trũi

– Em tôi, em tôi rồi! Thế bây giờ cả bọn… Khổ em tôi bị bắt…

– Không, Trũi có phải tù đâu. Nó đi đứng cũng như Châu Chấu Voi thôi. Phải rồi, không…

– Không thế nào?

– Không, không… Chà Chà, ít lâu nay tôi hay quên quá. Phải, tôi nhớ ra rồi. Cái hôm Châu Chấu Voi và Trũi qua đây, mục đích họ  muốn rủ tôi cìng đi làm một công việc. Chao ôi! Cái công việc tưởng tượng là sẽ đi khắp quê hương các loài trên trái đất. Nghe khó  lắm!

Tôi kêu lên:

– Hay lắm!

Xiến Tóc thong thả nói tiếp:

– Tôi xua tay, lắc đầu và bảo với những kẻ viển vông ấy rằng “tôi xin thôi nghe việc đó”. Tôi đã sợ đời rồi. Tôi bây giờ đội mũ  ni. Sự đời đã bỏ nó ra ngoài hai cái râu. Sự đời đã tắt lửa lòng, còn chen vào chốn bụi hồng làm chi.

Tôi sốt ruột:

– Thế bây giờ họ đâu?

– Không rủ được tôi, họ đi.

– Ði đâu?

– Họ có hẹn đi một vòng cánh đồng bên kia rồi họ sẽ trở lại, qua đây sang phía tây. Anh cứ ở đây mà đợi, chắc sẽ gặp. Trũi không hề  gì đâu. Nhưng anh cũng thích bay nhảy thế thì anh thật là ngông cuồng. Chao ôi!

Bác Xiến Tóc không biết rằng công việc Châu Chấu Voi đương mưu đồ cũng chính là điều tôi mơ tưởng. Từ khi mẹ tôi căn dặn lúc ra đi,  dần dà tôi đã hiểu rộng ra ý nghĩa cuộc sống. Tôi và Trũi cũng định đi khắp thế gian này. vậy nên, dù chỉ nghe mang máng, tôi đã  cảm tình ngay với Châu Chấu Voi. Và tôi ân hận quá chừng về cuộc đánh nhau dạo trước. Cũng lại chỉ vì tôi nóng nảy và nông nổi nên  mới nên nỗi thế. Nếu tôi chịu khó thăm hỏi trước thì đã chẳng sao. Tuy vậy, tôi cũng đỡ phần áy náy vì chắc Trũi được vô sự. ở lại  đây đợi hay đi? Tôi phân vân. Tôi có tranh luận việc đời với bác Xiến Tóc mấy lần nữa. Nhưng óc bác Xiến Tóc dễ đã mủn ra thành  miếng bột, không gợn một nếp nghĩ. Tuy nhiên nếu ở lại đây mà gặp được Trũi như Xiến Tóc mách thì tôi cũng chịu khó đợi. Thế là tôi  dừng chân và nương náu trong cái lều cỏ của ẩn sĩ Xiến Tóc vừa chán đời vừa đá lẩm cẩm. Ngày ngày bên tôi vo ve lèo nhèo những  cuộc ca hát vẩn vơ của các nàng Bướm và chàng Ve Sầu. Nghe mãi, và chỉ nghe đàn hát và chơi không thì cũng chối tai. ở đây, không  một cái gì đáng gọi là công việc cả. Nói tóm lại, những ngày trú chân chỗ này tôi thấy cảnh sống xung quanh không khác thủa còn  bé tỉ ti khi tôi mới được mẹ cho ra ở riêng, cứ tối đến, mê mải đi nhảy múa hát hỏng với bè bạn, ngày tháng ăn chơi lêu lổng.

Chơi không thì bao giờ cũng chóng chán – tất nhiên. Tôi không ưa bọn này. Huống chi, tôi là kẻ hay bay nhảy, lại càng lấy việc  phải dừng chân là khó chịu. Dần dà, tôi thấy thì giờ tôi với họ thậm vô tích sự. Bướm và Ve Sầu là lũ ăn hại, trốn việc. Bác Xiến  Tóc đã từ lâu sinh mất nết, đâm lười, ăn hại nốt. Nếu không mong chút hy vọng ở lại có thể gặp Trũi thì chắc tôi đã cuốn gói đi  rồi. Nhưng ngày ngày, nếu đời sống biếng nhác xung quanh càng khiến tôi bực dọc thì ý nghĩ về việc của Châu Chấu Voi định đi khắp  nơi để kết giao với người tốt càng nung nấu, thấm thía trong tôi, tưởng tượng ra tôi sắo được đi cùng đoàn bè bạn có chí lớn ấy.  Ngày mai, ngày kia hay chốc nữa? Mỗi buổi sáng, bừng mắt lại thấy bồn chồn và tha thiết muốn đi.

Chẳng còn mấy ngày nữa thì mùa xuân đã hết. Rồi mùa hạ qua đi, bây giờ hoa sen trong đầm nước cũng tàn rồi. Lá xanh bắt đầu úa đỏ.  Trời đã ngả sang mùa thu. Buổi sớm ấy, các ả Bướm rủ tôi vào rừng dự cuộc múa hát thi. Tôi lắc đầu từ chối rồi một mình lững thững  dạo ra bờ suối, đứng ngẩng trông chờ. Lòng hiu hiu nhớ Trũi và bâng khuâng mong ước xa xôi. Bỗng đằng phương tây tràn đến những  tiếng reo à à. Một đàn ong bay ào đến đậu trên những bụi trúc và những cây cối xay nở hoa vàng choé. Ði kiếm ăn về, nghỉ chân đấy,  ong nào cũng nặng phấn và đầy những tiếng vo ve chuyện vui, những bài hát hùng tráng thúc giục của ngày đường. Không khí yên tĩnh  nơi quạnh vắng, bỗng nhộn nhịp hẳn lên.

Nghỉ một lát, đàn ong lại bay vù. Tấm lòng náo nức của tôi nhộn nhịp cũng như bay theo. Tôi ngơ ngẩn nhìn. Ðàn ong đó hẳn vừa qua  một quãng đường dài. Họ đi xây dựng đời sống, họ đổi chỗ ở. Phải sống ở đời có biết đi đây đi đó, biết làm việc thì mới là đáng  sống. Tôi bồi hồi, khao khát. Những tiếng: giang hồ hoạt động, đi hết anh em trong thiên hạ, đến nhảy múa trong óc tôi. Chân tôi  ngứa ngáy, giậm giật. Lại đi, lại đi thôi! Tiếng gọi tôi lên đường mà đàn ong vừa thổi kèn vừa bay tung trời kia đương vang vang  trước mắt tôi. Vả chăng, tôi cũng đã chán cảnh, ngấy tình ở đây lắm.

Tôi còn đương suy tính, lưỡng lự khi bước qua rừng thưa. Cạnh bụi trúc, tôi thấy bác Xiến Tóc gật gù trầm ngâm. Bác ta vốn lực  lưỡng, vai rộng vuông vắn, rất khoẻ mà nay lúc nào cũng ủ dột, trông thật không khớp với dáng vốn nhanh nhẹn, thành thử nom bác ta  đâm ra vẻ buồn cười. Bác ta ngước mắt nhìn vơ vẩn rồi gật gù cất giọng vịt đực ngâm ư ử?

…Chi bằng

đến thẳng

giậu cúc thơm

Ngồi khểnh

vỗ đàn

gảy một khúc

Cha mẹ trời đất! Những nghe đã phát ngán. Hai cảnh nối nhau vừa bày ra trước mắt tôi: đàn ong mải mê rầm rộ; một bác Xiến Tóc to  xác, quá lười cứ ra ngẩn vào ngơ. Tôi vốn ít mơ mộng, không thích lối sống phất phơ. Càng thêm ngấy và bực.

Tôi quyết bỏ các bọn vô tích sự này và lại ra đi ngay hôm ấy. Không từ biệt ai, không ai trông thấy, tôi cứ thế đi. Ði mươi hôm  thì đến chân một con đê. Dốc đê cao, leo mãi mới tới được mặt đê. Ðứng nhìn ra sông thấy làn nước đỏ ngòm băng băng chảy. Lắng  nghe có tiếng hét “quých quých!” dữ dội ngay trên đầu. Ngẩng đầu thì thấy một lão chim Trả loắt choắt mà rất diện vừa bay tới. Ôi  chao, lão ta làm bộ điệu mới bảnh bao và oai vệ làm sao!

Tên lão là Trả. Có lẽ vì lão chỉ ăn cá – chả cá và gỏi cá! Mỗi khi định bắt một con cá, lão vỗ cánh đứng ngắm nghía trên không rồi  thình lình đâm bổ xuống mặt nước, túm cá lên. Vì cách câu cá đặc biệt ấy, lão còn có biệt hiệu là tiên sinh Bói Cá. Tôi trông  lão này có nhẽ cũng nhiều tuổi, người đã hom hem quắt lại rồi. Song lão Bói Cá xưa nay nổi tiếng là già mà hay làm đỏm trái mùa.  Ðã hóp má rồi lại hay tỏ vẻ hơ hớ trai tơ. Lão sắm đâu được bộ cánh màu sặc sỡ không hợp tí nào với bộ mặt âm thầm của lão. Bụng  trắng, lưng xanh thắt đáy, đôi cánh nuột nà biếc tím. Chân lão đi đôi hia đỏ hắt. Lão sẽ đôi chút đẹp trai đấy nếu lão có cái mỏ  vừa phải. Nhưng, cơ khổ, lão phải vác giữa mặt một cặp mỏ kếch xù mà đen quá, dài quá, xấu quá. Mỏ lão dài hơn người lão và to đến  nỗi trông giống như có ai nghịch ác đem đóng cả một chiếc cọc tre gộc vào giữa mặt lão. Cả ngày, lão nhăn nhó méo mặt vác mỏ chẳng  khác gì anh cu Sên suốt đời phải đội toà đình đá nặng trên lưng vậy.

Tôi ngắm cái mỏ lão chim Trả mà cười thầm là đáng đời cái anh già hay làm điệu mà không thể cất cái mỏ xấu xí kia đi đâu. Nhưng,  quả báo, cái mỏ to tướng tôi đương chế nhạo thầm đó sắp sửa đến hỏi tội tôi đây.

Duyên do thế này:

Lão chim Trả đương bay, bỗng sà xuống đậu trên tấm phên nứa cửa cống trước mặt tôi. Cái phên lung lay, lão cứ ngất ngưởng đứng lấy  đà nhưng vẫn không quên chăm chú trông ra mặt nước rình cá. Gật gù một lát lão chợt trông thấy tôi nhô lên trên đê.

– Ðây rồi! Ðây rồi!

Như gặp lại bạn chí thân! ( Rồi tôi mới biết lão kêu lên thế vì đấy là lão vừa nảy một ý rất hay của lão ).

Hai tròng mắt lão đỏ lòm lộn lên rất nhanh. Lão bay chéo thẳng xuống đầu tôi. Lão giương cặp mỏ to tướng ra. Tôi trông vào thấy cả  cái lưỡi lão nhọn hoắt và thắm như máu. Tôi hơi luống cuống. Nhưng có điều danh dự đáng tự hào này, xin thưa cùng bạn đọc yêu quý:  tôi thường đắc ý rằng đã từ lâu, dù trong cơn nguy hiểm, dù chết ngay tôi cũng không hề một lần nào nữa hạ mình lạy lục ai, như hồi  xưa tôi có lần lạy bác

Xiến Tóc khi bị Xiến Tóc doạ nạt.

Bây giờ, trước mặt lão chim Trả, tôi loay hoay tìm cách chống đỡ. Lão chim Trả đã có tiếng là cục tính, khi lão phát cáu hoặc khi  ham muốn điều gì. Nhưng tôi nhất quyết không sợ. Tôi lấy hết gân, bạnh người, giương cánh, giang chân khuỳnh càng ra. Cả thân mình  tôi nở bung, như con cua càng.

Thấy chưa chi tôi đã tỏ ý kháng cự, lão chim Trả gầm lên:

– Hè…hè…Oắt! Oắt!… Giỏi! Giỏi!

Lão bổ thượng xuống một mỏ. Chưa bao giờ tôi bị một đòn khiếp thế. Nhưng đầu tôi vốn đội mũ trụ, nổi tảng, cứng lắm. Tôi chỉ đau mà  không xây xát tí gì. Thấy không đánh ngã nổi tôi, đáng lẽ phải cáu hơn, nhưng lão chợt nhớ lại cái ý hay mà lão đã kêu “đây rồi,  đây rồi” lúc nãy. Lão bèn quắp tôi, bay bổng lên. Chao chao. Gió rú trên cao đến lộng óc. Từ lọt lòng mẹ chưa bao giờ tôi bị tung  lên tận lưng trời như thế!

------------

Nhưng cuộc đời Mèn tôi chưa phải đến đây đã bị phết cái dấu chấm sau cùng. Tôi còn sống. Vẫn sống. Ðể hôm nay ngồi kỳ khu chép  những ngày giang hồ lên trang giấy trắng cho bạn đọc yêu quý cùng nếm với Mèn tôi chút phong vị và ý nghĩa một quãng đời luân lạc.

Thế nghĩa là, tôi không chết. Tôi nằm bẹp dí trong cặp mỏ lão chim Trả và bây giờ lão đương bay là là xuống sát mặt dòng sông phù  sa đỏ ối. Qua sông rồi, lão đỗ vào một bãi dâu xanh lưa thưa. Lão vừa buông tôi xuống đất, tôi đã giơ ngay chân và càng lên gai  ngạnh thủ thế và nghênh địch, như lúc nãy.

Lão ngoác mỏ ra cười khà khà rồi nói:

– Ái chà! Diễu võ giương oai cứng đấy! Nhưng thôi, hãy cụp chân xuống mà nghe đây. Tớ vừa tậu được ngôi nhà mới, tớ dương cần quản  gia. Ðằng ấy về làm quản gia cho biệt thự của tớ. Bằng lòng không?

Cái ý hay đã khiến lúc nãy lão chim Trả kêu lên: “đây rồi, đây rồi” là thế đấy. Tôi lắc đầu cãi rằng tôi đương tự do đi trên đường  cái, không ai có quyền lấy mất chân tay của tôi, nếu ông có lòng tốt và biết ân hận về sự tình ức hiếp nhau vừa rồi thì chỉ việc  ông kệ tôi đứng đây rồi tôi đi đâu mặc tôi, đừng thở ra câu nói trái tai nào nữa.

Nhưng lão chim Trả nheo mắt lại bảo:

– Này này, chớ lảm nhảm lý sự vô nghĩa. Hỏi chơi thế thôi chứ dù chú mình không muốn, ta bắt chú mình phải muốn.

Tôi cứ thản nhiên, đến khi lão hỏi dồn thì tôi chỉ lắc đầu. Lão liền hé mỏ quắp tôi bay đến cái nhà mới của lão. Cái nhà mới, hay  nói cho oai, biệt thự của lão chim Trả là một cái hang sâu hỏm vào giữa một mô đất cát trên bờ sông. Cũng không phải tự tay lão  đào cái hang này. Lão không biết đào mà lão chỉ có tài láu vặt. Nghĩa là cái tài đi cướp nhà của chú chuột.

Chim Trả chuyên tìm hang sẵn. Ðược cái bỏ hoang thì tốt, nếu không lão rình chú Chuột đi vắng lâu ngày, lão vào giả vờ đào bới  khoét tí ti trong ngoài, đến khi chủ hang về, lão chim Trả sinh sự tống ra ngoài, cứ nói xưng xưng là vào mà xem! Vào mà xem! Có  phải nhà mày đây không. Chú Chuột nọ bực mình, nhưng cũng ngại lôi thôi, thế là bỏ quách. Tuy vậy, không phải chú chuột nào cũng  dễ tính. Có chú Chuột còn đến cãi nhau mãi. Thế ra bây giờ lão chim Trả nghĩ cách bắt mình giữ hang và có thể còn cãi nhau hộ  đây.

Lâu nay, lão đã có ý tìm một quản gia như thế. Trong cùng hang, lão đã đào thêm một ngách nhỏ vừa cái lỗ con con. Lão đẩy tôi  vào đó. Tôi lùi ra, đạp hậu vào mặt lão. Nhưng chỉ đạp trúng cái mỏ cứng như đá, chẳng ăn thua gì. Lão bèn đưa cả cặp mỏ to tướng,  hẩy phắt tôi vào. Tôi ngã chúi đầu vào tường cát. Lập tức lão nhặt viên gạch, chặn kín cửa ngách. Tôi mất đường ra. Trong ngách  tối như hũ nút. Cái khe hở tí ti không đủ thò một chân ra. Lão chim Trả đứng ngoài truyền lệnh vào cho tôi:

– Việc của đằng ấy từ nay là chung thân coi nhà. Làm khá thì được thưởng. Làm không nên thì được ăn đòn. Bây giờ dỏng tai nghe tớ  dạy cách coi nhà: muốn không cho bọn chuột bọ rắn rết nào vào trộm cắp được thì cứ dóng cổ lên hò hét tất cả những lúc tớ vắng nhà.  Ðứa nào đi ngoài cửa sẽ hiểu rằng trong hang có chủ, không dám vào. Có thế thôi! Mỗi bữa tớ sẽ đem về các thức cỏ ngon cho mà ăn.  Sướng nhé!

Tôi không hát, không hét, không kêu la như lão muốn. Lão rình mấy lần, không thấy tôi động tĩnh. Thấy thế, lão không đem cỏ về  cho tôi ăn. Ðói quá. Sau tôi nghĩ thế là dại, chẳng nhẽ chịu chết ở đây, ta phải gắng ăn để sống, để có sức tìm cách thoát khỏi  hang hùm, thế mới là thượng sách.

Từ hôm ấy, cả ngày tôi hò hét trong hang, nhiêu lúc lão có ở nhà tôi cũng kêu ầm ĩ, lão không ngủ được phải quát lên, tôi mới  thôi. Ngày cũng như đêm, tôi quanh quẩn trong cái hang kín. Ngày cũng như đêm, tôi hát rống cò ke chẳng ra đâu vào đâu, như đứa  dở hơi. Ðể bọn đi ngoài kia biết hang có chủ, khỏi vào nhà nhầm. Ðể cậu Chuột chủ cũ có về tưởng trong hang lắm thứ chen chúc, nào  Dế nào chim Trả lộn xộn, cũng sợ lôi thôi, không vào đòi nữa.

Lão chim Trả đi vắng cả ngày, không mấy khi có nhà. Ban đêm, lão ta ngủ, tôi nghỉ hò la hát hỏng thì tôi lại cặm cụi bí mật đào  ngách. Nhưng trong cái tường bịt trước mặt tôi, lão ta đã tha đâu về được nhiều hòn sỏi lèn vào đấy, sức móng chân tôi không khoét  nổi. Mà đằng sau lưng thì chịu. Tuy vậy, tôi vẫn chịu đựng và nuôi hy vọng. Mặc dầu không biết sẽ ra sao, nhưng vẫn tin và chờ.  Lòng tin và hy vọng ở với tôi, an ủi tôi, xua đuổi cái buồn nản trong tôi đi.

Trong cái âm thầm bóng tối ghê gớm ấy, trò hò hát vẫn là công việc bó buộc hàng ngày. Nào ai cần đâu tôi hát hay hát dở, đây lão  ta chỉ bắt tôi mở miệng, rồi tôi kêu hay hát, hay quát tháo cũng được, miễn tiếng động ấy chứng tỏ trong hang có chủ. Tôi nghêu  ngao hát, tôi gáy. Ðể tìm cách sống, để nghĩ kế. Tôi cũng tưởng tượng biết đâu mình kêu như thế, ai tò mò vào, rõ nỗi oái oăm  mình bị cầm tù, có thể tìm cách cứu được mình chăng. Tôi nghĩ kế, tôi nghĩ…

Bởi vậy, tôi không hát những câu nhảm nhí nữa. Tôi đặt ra các câu hát có hồn. Tôi hát cho tôi nghe. Những bài hát mới, những bài  hát ai oán thân phận, những bài hát tâm sự, những bài hát mang hy vọng xa.

Ai làm chi nổi

Có dại mới nên khôn

Nước nước với non non

Năm canh hồn ngơ ngác.

Ngày kia như lệ thường, lão chim Trả bay ra sông kiếm ăn từ sáng sớm. Tôi bâng khuâng hát đi hát lại:

…Nước nước với non non

Năm canh hồn ngơ ngác.

Mình lại nghe tiếng hát của mình chìm vào bóng tối, lòng tôi lìm lịm thấm thía và cứ hát mãi.

Tôi hát lại:

Ai làm chi nổi

Có dại mới nên khôn…

Vừa dứt tiếng, nghe ngoài cửa có tiếng hỏi vọng vào:

– Tiếng ai như tiếng anh Mèn phải không? Tôi vội kêu:

– Ai đó? Tôi đây! Tôi đây! Mèn đây!

ở ngoài dội vào tiếng kêu to hơn:

– Ối! ối! Anh Mèn ư! Trũi đây! Em Trũi đây. Anh đâu? Anh đâu? Anh ở chỗ nào?

Tôi bàng hoàng cả người. Ðúng tiếng Trũi. Dù xa nhau tôi vẫn không quên cái giọng

ồ ồ của nó. Cũng như Trũi, bấy lâu dù sơn khê cách trở, Trũi vẫn nhớ ngay tiếng tôi. Tôi bảo vọng ra:

– Anh ở đây. Anh phải tù trong đáy hang này. Có ai đương đi với em ngoài đó không?

– Thưa anh, các bác Châu Chấu Voi với bác…Em vào cứu anh ngay tức khắc…

Tôi nói lớn:

– ấy chớ! cứu anh thì đã đành, nhưng đừng vào bây giờ. Tường nhà tù chắc chắn lắm, mà sắp đến buổi lão chim Trả đi kiếm ăn về rồi.  Em chịu khó ra ngoài đợi, sáng mai, lúc lão ta trở dậy lại bay đi, lão đi rồi, ta vào thì chắc chắn hơn.

Lát sau, quả nhiên lão chim Trả từ ngoài bờ sông bay về, chui tọt vào hang. Anh em ngoài ấy hẳn đã núp đâu quanh, chắc là lão ta  không biết. Lão ngồi tựa cái tường đất ngay ngoài buồn giam tôi, lão ngủ. Bấy giờ đã tối. Tôi chỉ nhấm được tí cỏ, rồi cả đêm lòng  rộn rực. Bao nhiêu câu hỏi rối ren trong trí. Làm sao Trũi lần mò qua đây? Ngày mai mình thoát chốn này ư? Ôi chao, lại sắp thấy  trời, trời xanh, lại thấy ánh sáng, ánh sáng vàng những nắng. Anh em lại gặp nhau. Sao cái đêm chờ đợi lê thê, dài đến là dài.

Sáng hôm sau, lão chim Trả bay đi kiếm ăn từ lúc sương chưa tan. Vào lúc ấy dễ đón cá đi ăn rạng đông. Tin chắc lão không trở lại  bất chợt, lão tính cẩn thận không bỏ quên cái gì bao giờ.

Lão chim Trả vừa ra khỏi, tôi gọi ầm:

– Trũi ơi! Trũi đâu?

Tiếng đáp lại ngay: “Dạ..dạ…Em đây…” Hình như các bạn đã nấp quanh đấy cả đêm qua. Lập tức, mấy cái bóng lổn ngổm bò vào hang, hì  hục đào bới cậy khoét moi đất ra. Lão chim Trả lèn gạch đá cẩn thận lắm, phải bới một lúc mới hở tẹo lỗ. ở trong, tôi nghe các cu  cậu thở phì phò.

Nhưng cái lỗ tí tẹo cứ to dần. Tôi thò được đầu… Tôi nhoi được vai…Rồi tôi quờ cả hai chân trước ra. Ðến đấy tôi giở món sở trường  đạp hậu phanh phách một cái a lê hấp! Người tôi bật như bay bổng ra phía cửa hang. Các bạn cùng reo lên. Chợt nhớ đến lão chim  Trả, tôi bảo các bạn chạy đi, phải chạy ngay. Ðược một quãng, đến bụi thài lài kín đáo, chúng tôi đứng lại. Ðã lâu bây giờ mới được  chuyến chạy và bay, đạp thoả hai cái càng. Sau tôi, cả lũ theo, tôi chạy nhanh quá.

Cả lũ, có Trũi và các bạn Châu Chấu Voi. Nhưng cái anh chạy nhanh đầu tiên không phải Trũi mà là…bác Xiến Tóc. ẩn sĩ Xiến Tóc ở  lều cỏ dạo trước ấy! Bác Xiến tóc vừa chạy vừa bay, rất gọn. Không còn chút nào cái dáng đủng đỉnh chán đời bữa nọ.

Tôi chưa kịp ngạc nhiên, bác Xiến Tóc đã vuốt sừng cười rộ:

– Tệ quá! Bỏ đi mà không nói ai biết. Ðằng ấy đi mấy hôm thì Châu Chấu Voi và Trũi trở về. Tôi kể chuyện đằng ấy đi mấy hôm thì họ  hoảng hốt lên. Ồ, bạn Trũi giỏi lắm. Ngày trước Châu Chấu Voi đã giảng giải cho tôi, đến khi đằng ấy tới cũng nói là đời sống giang  hồ thì vui thích như thế nào, tôi cứ u mê cãi lại, tôi tưởng cái số mình lắm tai hoạ, không bao giờ dứt nổi bệnh chán đời nữa. Thế  mà đến khi Trũi nói, bạn Trũi nói có một lần, mình đã tỉnh. Tôi xấu hổ nhận ra trong đời mình chỉ mới khó khăn một tí mà đã sợ. Từ  nay tôi hiểu rằng chán đời là tính xấu, kẻ chán đời nghĩ là ta cao thượng, nhưng thật không cao thượng chút mà chỉ là trốn việc  rong chơi. Nghĩ được thế, tôi liền tống cổ bọn Bướm, bọn Ve Sầu lười biếng lại hay kêu ca phàn nàn và cả mấy gã Sên rề rà chuyên ăn  bám, tôi cũng đuổi nốt và bảo họ rằng từ nay đi kiếm lấy mà ăn chứ cái thân ăn nhờ ở cậy là xấu xa nhất trên đời. Tôi đốt cái lều  cỏ rồi tôi theo anh em đi từ độ ấy.

Trũi giới thiệu tôi với các bạn:

– Anh Mèn tôi đây. Anh Mèn mà tôi vẫn kể chuyện các bạn nghe đó. Anh ơi Từ khi anh em ta xa nhau. Chắc anh tưởng em chết rồi chứ  còn đâu ngày nay. Nhưng không, khi em bị các anh Châu Chấu Voi bắt rồi mang đi thì em hiểu ngay các anh ấy là bạn tốt thế nào.  Hôm đánh nhau, nếu chúng ta đừng hấp tấp và chúng ta đừng bị những đứa nhát sợ và nóng nảy cứ đẩy lung tung lên, mà ta chịu khó,  bình tĩnh hỏi han trước thì không thể xảy ra sự đáng tiếc và chúng ta đã hiểu nhau ngay từ lúc ấy. Các anh Châu Chấu Voi với  chúng ta đều thích giang hồ phóng khoáng.

“Em nghe ra những lời chí lý ấy, em phục lắm. Tuy chẳng lúc nào em quên tình anh em, nhưng em cũng tình nguyện đi với các anh  Châu Chấu Voi và em tin chắc ngày kia anh em sẽ gặp nhau. Ðược ít lâu, em cùng các bạn trở lại rặng dứa dại trên đê, định nói với  anh, em tin chắc anh sẽ thích ngay, bởi vì em vẫn nhớ anh đã dạy cho em biết ý nghĩa bước phiêu lưu của anh em mình ngày trước  cũng giống thế. Nhưng các bạn Châu Chấu Voi nói anh đã đi tìm em. Em có trình bày cho cả vùng Châu Chấu nghe cái mơ ước mà em  đương theo đuổi. Ai nấy vỗ tay, nhảy mừng. Bởi vì nếu mơ ước đó thành sự thật thì không bao giờ trong đời còn gặp rủi ro, chỉ vì đi  tìm khe lá tránh rét.”

“Rồi em lại đi. Thời gian sau, có lúc chúng em qua chỗ cái chùa, tại gia của bác Xiến Tóc, thấy bác ấy bảo anh đến đây đợi em từ  lâu và mấy bữa rày chẳng biết anh đi đâu. Em mừng quá. Nhưng đợi mãi chẳng thấy anh về. Chỉ ở có ít ngày em cũng có thể đoán được  tại sao anh đi. Em đã biết tính anh, trước cảnh ăn chơi dông dài anh không chịu được. Thế là không đợi anh về nữa, em lại cùng các  bạn Châu Chấu Voi đi.”

“Chúng em đương trên đường sang vùng Kiến. May mắn biết bao, gặp anh đây…

Tôi và Trũi nhìn nhau, lúc ấy bỗng nhớ ra và càng thấm thía tâm sự câu thề ngày trước rằng từ đây sống chết có nhau. Một anh Châu  Chấu Voi cất tiếng. Tiếng Châu Chấu Voi sang sang như chiêng đồng:

– Phải, các bạn đã nói rất đúng rằng chúng ta đương cùng nhau đi khắp thế giới kết làm anh em.

Trũi cảm động nói:

– Em tin đây cũng là bước đường anh em ta đi, chẳng hay ý kiến anh…

Tôi vui sướng thấy Trũi bây giờ khác hẳn trước. Trũi đã hết tính hấp tấp, nóng nảy, xốc nổi. Trũi giờ nói năng điềm đạm, chắc chắn.

Tôi âu yếm ôm Trũi mà rằng:

– Em yêu quý! Các bạn Châu Chấu Voi tri kỷ ơi! Ðiều các bạn nghĩ, cũng là điều xưa nay tôi mộng tưởng. Nay tôi xin cùng các bạn  đi khắp thế gian, làm cho được những gì ta đương mơ ước.

Cả bọn reo lên. Và lập tức chúng tôi khởi hành.

Có lúc đương đi đường. Trũi dường như lấy làm lạ dừng lại ngắm tôi rồi hỏi tôi:

– Ơ hay! Sao bây giờ anh trắng trẻo như học trò, không đen trậm trụi như xưa. Tôi cười:

– Vì anh phải tù trong cái hang của lão chim Trả, lâu không biết mấy mùa sương nắng đã qua, nên thân mình anh mới bệch một vẻ  công tử bột như thế. Chắc chỉ dầu dãi ít lâu thì lại như thường thôi, bởi vì sức khoẻ anh thì vẫn nguyên và tấm lòng anh thì đương  hăng hái lắm.

------------

Ðến đây, tôi xin mở dấu ngoặc nói về Châu Chấu Voi.

Ðây là những tay có bản lĩnh trước tiên xướng xuất lên những ý nghĩ cao cả về việc đi giang hồ du lịch.

Khi Châu Chấu Voi gặp tôi và Trũi ở vùng cỏ may và khi xảy ra cuộc lưu huyết là lúc Châu Chấu Voi ắt đầu thực hiện chí lớn. Nếu  ngày ấy tôi biết thì đã chẳng phiêu bạt đến cái lều cỏ của cư sĩ Xiến Tóc rồi lại đến nỗi phải tù trong hang chim Trả.

Ðoàn Châu Chấu Voi cùng Trũi đi đã nhiều đường đất, mhiều nơi. Ớ đâu, ai ai cũng đều coi tình bạn tốt đẹp ấy là lẽ phải nhất trên  thế gian.

Ðã qua nhiều vùng, trò chuyện và bạn bè đã nhiều ai cũng nghiệm ra rằng những ai có lòng tốt, đều thích làm ăn yên ổn. Ðâu đâu  cũng thế, thật phấn khởi. Chỉ có cái khó là bàn chân và cả cánh bay, cũng không thể đi cùng trời cuối đất để mau chóng nói rộng  những điều quan trọng ấy ra.

Không ai bảo ai, các bạn đều thấy nếu thế thì không gì hay hơn tìm đến vùng Kiến. Chỉ có anh em Kiến vẫn chịu khó cẩn thận- và khắp  thế giới, đâu cũng có Kiến. Ðó là cái cớ khiến Châu Chấu Voi và các sang vùng Kiến, đi qua của hang chim Trả vừa rồi.

Từ đấy, trong bọn có tôi cùng đi.

Lại nói về Kiến. Xưa nay, dù cho đấy là một họ Kiến to gồ thì Kiến cũng vẫn là bé nhỏ, mảnh dẻ, tuy vậy, kiến lại sống đông đúc nhất  trên toàn cầu. Thử để ý mà xem, từ xó bếp đến bàn ăn, chiếu ăn, mâm ăn, từ đồng ruộng đến rừng núi thành phố không đâu không có  kiến. Con kiến rất nhỏ mà ở đâu cũng có, hạt thóc, hạt kê bé li ti là cái nuôi người hàng ngày… Kiến tí hon mà kiến đi khắp thế  gian. Nhiều thứ kiến: Kién Gió, Kiến Mun, Kiến Càng, Kiến Cỏ, Kiến Cánh, Kiến Bọ Dọt, Kiến Ðen, Kiến Vàng… trăm nghìn chỉ phái nhà  kiến nhiều không kể xiết.

Kiến có nhều đức tính: chăm chỉ, cần cù, biết lo xa, và cũng bướng bỉnh nhất trần gian, ở đâu cũng vậy, Kiến xây thành đắp luỹ kiên  cố, riêng biệt một nơi.

Kiến đánh nhau với ai thì chết ngay cũng đánh, không biết sợ.

Nhưng cùng nhau một chí hướng rồi, Kiến sẽ đem những điều tốt đẹp truyền bá đi khắp thế gian. Như thế chẳng bao lâu nữa, đâu đâu  cũng sẽ biết hết. Kiến cứ gặp nhau chụm đầu lại, đưa tin rồi lại đi. Bao giờ cũng vậy. Tin Kiến truyền thật nhanh. Chỉ có các bạn đại  gian khổ như Kiến Gió mới kham nổi công việc to rộng như thế. Các bạn Kiến Gió chân cao chuyên nghề đưa tin, nhanh như gió.

Ðường vào vùng Kiến xa lăng lắc, rồi lại mỗi thành luỹ hiểm hóc khác, cứ phải hỏi thăm suốt dọc đường. Nhưng đi lâu cũng phải tới.  BBây giờ chúng tôi đã qua nhiều làng và cánh đồng, trông thấy vùng Kiến trên trái đồi trước mặt.

Trời đất giờ đây lại sắp sang xuân. Gió nhẹ. Thinh không cao cao. Mỗi năm gặp lại mùa xuân, trong lòng lại thấy hai câu thơ tự  nhiên trở lại, thật xinh tươi thay: Cỏ non xanh rợn chân trời. Cành lê trắng điểm một vài bông hoa. Ai nấy đều ca hát. Riêng bác  Xiến Tóc đi cạnh tôi vẫn còn than thở và ân hận về cái thời nhàn cư cho qua ngày ở xó rừng một cách vô lý, thậm vô lý. Bây giờ  được đi đứng, bôn tẩu đây đó, thì lạ thay lại thấy khỏi lừ khừ và khoẻ mạnh hơn xưa. Mới biết chẳng việc khó nào khiến ta nản lòng  được. Kể đâu đến thành bại mục đích ở đời là hoạt động.

Ðường đi khúc khuỷu dần.

Chúng tôi leo lên trên lưng một trái đồi thì đến địa đầu vùng Kiến. Chúng tôi dừng lại đưa mắt trông vào thấy một màu đất đỏ trùng  trùng nhấp nhô những thành trì nối nhau đi liên tiếp, không biết đâu phân biệt được đường đi. Ðáng khen phục kỳ công kiến trúc của  các kỹ sư Kiến.

Hôm sau chúng tôi bắt đầu đi vào.

Từ hôm ấy, chúng tôi qua biết bao nhiêu khó khăn. Ðể bạn đọc yêu quý rõ từng ngày gian khổ ra sao, tôi xin trích vài dòng nhật  ký của tôi, ở tập thứ tư, những trang 151, 154, cho đến trang 158 chép về “Những ngày Mèn đi vào đất Kiến”:

“Mùa xuân, ngày 79 – Kiến ở đông quá. Câu tục ngữ “đông như kiến” thật đúng. Ðường ngang lối dọc chỗ nào cũng đầy kiến. Ðầu tiên  chúng tôi trông thấy từng bọn Kiến Gió. Kiến Gió có nghề xây đắp rất giỏi, lại đi nhanh theo cách không phải đi. Kiến nghiêng  mình vào làn gió, gió thổi bay. Kiến tự dưng sa xuống chớp nhoáng hơn gió.

Màu áo nâu lẫn với đất, các chàng đi dày đặc quanh chúng tôi. Thấy chúng tôi to lớn, thân hình mỗi Kiến Gió chỉ bằng cẳng chân  tôi, nhưng họ không sợ hãi, vẫn thản nhiên ngửa mặt đứng thò hai râu ra nghe ngóng chốc lát rồi lại chăm chú làm. Kiến Gió giỏi  khuân vác và xây dựng, đôi khi chạy tin cần kíp.

Một tốp Kiến Lửa quần áo vàng khè, Kiến Lửa lầm lì hì hục đào đất xây hào luỹ. Họ dựng lũy đào hào rất khéo. Các đường hầm phủ mảng  đất luyện thật mỏng trên mặt thành đều do Kiến Lửa xây. Cả làng đi trong những đường chìm ấy, ít khi ló ra. Bởi thế, vào vùng Kiến  thoạt trông chỉ thấy cao thấp những mảng đất vắng vẻ, nhưng trong đường hầm, làng Kiến qua lại tấp nập chen chúc đông vui suốt đêm  ngày.

Tôi hỏi thăm đường. Gã Kiến Lửa nhìn chúng tôi không nói. Vẻ bí mật ghê! Ðã thế, cũng không cần, bọn tôi cứ đi.

Mùa xuân, ngày 82 – Gặp việc rắc rối. Vô tình, Xiến Tóc thụt chân xuống một đường hầm. Mọi hôm đi cả ngày không sao. Dù Kiến đi  đông đảo quanh chúng tôi, nhưng không ai đụng vào ai, thì ai cứ việc nấy, chẳng lôi thôi đến nhau. Bây giờ, bọn kiến dưới đường hầm  tưởng có kẻ đến phá hoại nhà cửa của họ. Gã Kiến Kim ngoi lên, chẳng biết nếp tẻ thế nào xông vào đánh nhau liền.

Thám tử Kiến Ðen chạy đi cấp báo khắp vùng. Lập tức vô vàn Kiến Lửa rầm rĩ hung hăng kéo đến. Nhưng anh chàng Kiến Lửa nào nhảy  tới, vừa nhe răng ra đều bị chúng tôi hất đá ngã. Chúng vẫn kéo đến. Chúng cậy đông, vây bọn tôi lại.

Mùa xuân, ngày 83 – Tự nhiên trên trời rơi xuống đầu chúng tôi hằng hà sa số những anh kiến to thô lố, áo đỏ và có cánh. Ðó là  Kiến Cánh nhảy dù. Ðoàn Kiến Cánh nhảy dù tới tấp đến. Kiến Cánh rất hăng. Có gã bị cắn đứt đuôi, rơi bụng ra mà vẫn chạy ton ton.  Trận đánh đương tơi bời thì Trũi sa vào đường mai phục, bị bắt sống. Nhưng nửa đêm Trũi trốn được. Chúng giam Trũi vào một hầm đất.  Hầm đất của Kiến thì mỏng mảnh thôi. Và chúng không ngờ tài đào khoét ngạch của Trũi. Chỉ dùng hai càng gạt mấy phát đã hổng một lỗ  to, Trũi ẩy đất, đổ bẹp cậu Kiến gác, thế là ung dung về.

Trũi về nói trông thấy bọn cứu viện kéo đến nhiều lắm. Chao ôi! Giảng giải thế nào cho những gã đương nóng đầu nghe được.

Mùa xuân, ngày 84 – Như Trũi biết, bữa nay thêm viện binh: Kiến Bọ Dọt. Kiến Bọ Dọt to, khoẻ hơn tất cả. Chỗ nào cũng có Kiến Bọ  Dọt chen vào, đi oai phong như bò tót đầu đàn. Lại có Kiến Kim và Kiến Cánh. Ðương đánh nhau hăng, bỗng Xiến Tóc đứng sững lên,  giương thẳng cả hai cặp cánh lụa, co múa rối rít chân và kêu rống từng hồi ghê rợn.

Thì ra, thấy Xiến Tóc mình đồng da sắt, đấm đánh bác ta như đấm đánh bị bông, cứ trơ ra, chẳng mùi gì, Kiến Bọ Dọt lập mưu chui vào  trong vành cổ Xiến Tóc. Khắp người Xiến Tóc đều bọ giáp sắt kể cả các khấc bụng. Chỉ có chỗ khe cổ rất hiểm là chỗ phạm. Bị đâm vào  đó, Xiến Tóc có thể đứt cổ.

Chúng tôi khiêng Xiến Tóc chạy lùi. Châu Chấu Voi rịt cho bã thuốc, buộc lại. Cổ Xiến Tóc như quàng cái phu la chàm. Không chết,  nhưng vết thương tấy, sưng vù. Xung quanh đánh nhau, Xiến Tóc ngồi khư khư một xó. Tuy vậy, cũng chẳng ai làm gì nổi. Thấy Xiến Tóc  ốm, có cậu Kiến tưởng bở, xông vào, Xiến Tóc giơ chân ra đỡ. Chân Xiến Tóc cứng như cây tre đực, Xiến Tóc cứ để yên cho Kiến cắn.  Chẳng ăn thua mà lại có thể gãy răng, kiến chạy.”

Trên đây là những ngày gian nan và rắc rối của chúng tôi. Và còn lôi thôi nữa. Mỗi buổi sớm, trông trước mặt, ngó sau lưng chỉ  thấy man mác lớp lớp những thành lũy mà Kiến Lửa, Kiến Gió mới đắp thêm, vòng vây càng dày nữa. Ðoàn Kiến Ðen, Kiến Gió thông tin  thì lảng vảng đi ngoài cùng. Chúng chạy, những cái chân lênh khênh phóng đi. Chúng thông hiệu. Anh này đương chạy liên liến, gặp  anh khác, đứng dừng phắt, gí râu móc vào nhau ấy thế là hai bên đã báo cho nhau đủ tin hỏa tốc, rồi lại chạy biến. Cứ thế truyền  mãi.

Tình hình trước mắt thì quả gay go thật. Chúng tôi biết có Kiến Chúa trong vùng này, cần phải gặp Kiến Chúa. Muốn gặp nhưng không  biết đích xác chỗ nào. Ðâu cũng coi chúng tôi là thù mà Kiến Chúa thì ở trong thành kiên cố, chúng tôi không biết tìm đến chỗ  nào được. Tôi bàn cố thủ đây, còn Trũi thì vượt vòng vây ra ngoài tìm về vùng cỏ may gọi các bạn Chuồn Chuồn. Các bạn Chuồn Chuồn  đến đây sẽ giúp chúng ta được nhiều: tải lương, đưa tin, đi liên lạc. Chuồn Chuồn sẽ bay đi tìm gọi Kiến Chúa. Chuồn Chuồn vốn tháo  vát. Các loài Chuồn Chuồn suốt đời kiếm ăn nơi đầu sông cuối bãi, những tay Chuồn Chuồn giang hồ ấy mà mở hết tốc lực phi cơ thì  phải biết.

Nửa đêm. Trũi lẻn được ra ngoài.

Trong khi ấy, vòng vây càng ngày càng thắt chặt thêm. Vì Kiến đã tin cho Kiến Chúa rằng bọn ngỗ nghịch chúng tôi ở đâu đến reo rắc  sự phá hoại. Kiến Chúa tức giận ra xem, thấy đúng hào lũy đồn ải tan hoang như lời báo. Kiến Chúa ra lệnh cho cả vùng vây hãm cho  kỳ đến chúng tôi chết đói hay phải bỏ chạy đi mới thôi. Bất cứ kẻ nào, cả đến những tay bọ hung sừng sỏ, lỡ chân lạc vào tổ kiến,  thường đều có đi không có về, nếu không cũng sợ chết khiếp suốt đời.

Sự hiểu lầm tai hại, càng tai hại.

Chẳng bao lâu, Trũi đã trở lại, kìa!

Trũi báo tin các bạn sắp đến. Chúng tôi sẽ có cứu viện. Chúng tôi vẫn tin tưởng. Nhưng sao chưa thấy vân mòng! Mà vòng vây kiến  thì mỗi lúc một chật ních thêm. Kiến ở đâu kéo về đông đặc đen sẫm như dòng sông mật quấn quanh trước mặt sau lưng chúng tôi. Ôi!  Chẳng nhẽ chịu chết ở đất này?

Bạn đọc yêu quý! Có một biến đổi – tôi hay nói biến đổi quá, nhưng thật có một biến đổi, tôi không biết nói thế nào khác. Xin để  tập sách xuống đó, lặng nghe tôi kể cho một chuyện khác. Thoạt nghe bạn sẽ cho tôi là dài lời, nhưng kỳ tình câu chuyện có quan hệ  đến cái cảnh đương gay go như lửa cháy này.

Có năm cô bé học trò, tên là cô Mai, cô Ðiển, cô Mến và hai cô nữa, không nhớ tên. Cũng như bọn các cậu Nhớn, cậu Bé, cậu Thịnh  ngày trước ấy mà, bạn lúc để chỏm thì nhều lắm, ai nhớ hết tên được. Các cô đi học, ngày chủ nhật đợưc nghỉ thì đi chơi. Năm cô học  trò đi chơi, có năm cô học trò đi chơi.

Các cô học trò đi chơi đôi khi khác kiểu các cậu học trò. Cũng chơi ngày chủ nhật nhưng các cô rủ nhau vừa đi chơi vừa kiếm củi.  Củi sưởi trong mùa đông tới, củi thổi cơm. Một cô nói thêm: hái hoa. Mùa này, bao nhiêu là hoa. Ðến đỗi trên đầu cây chua me đất  bé bỏng và gày gùa cũng đội cái mũ hoa tim tím cơ mà. Vậy thì chúng ta đi chơi, kiếm củi và hái hoa.

Các cô bước qua nhịp cầu bắc bằng hai cây tre ngang lạch nước sang trái đồi bên này. Trái đồi bên ấy đương bay nhiều Bướm Vàng, Bướm  Trắng, phấp phới lẫn với hoa hồng bụi đỏ rực và hoa tầm xuân hồng nhạt. cả bọn vừa hát vừa cười, nhảy chân sáo lên đồi. Góc đồi đó là  nơi bọn tôi và kiến đương giã nhau túi bụi mấy hôm nay.

Nghe tiếng động lạ, ngẩng lên thấy những bàn chân người đương thoăn thoắt tới. Ðối với chúng tôi thì những bàn chân ấy ví như một  trận mưa đá, toàn đá tảng, những hòn đá tảng to thật to choảng tôi. Không làm thế nào chống được, phải nhanh chân không thì chết  mất ngáp!

Tôi hô lớn:

– Anh em ơi! Chạy đi!

Bọn tôi nhất tề bay giạt vào nấp trong bụi cỏ ấu.

Các cô vừa tới, vô ý, đương nghếch mắt và với tay rón rén hái hoa tầm xuân. Thế là bàn chân loay hoay rồi giẫm vào tổ kiến. Kiến  vốn cục tính, như chúng ta đã biết. Thấy động đến là kháng cự liền, bất cứ ai. Phải đương cơn va chạm kịch liệt với bọn chúng tôi,  thế là kiến cong đít nhọn hoắt lên, nhè chân các cô bé mà cắn. Cậu Kiến Lửa thì leo lên ngoặp hai làn răng nanh dữ dội vào bắp  chân.

Hai cô giật mình, buông cành hoa tầm xuân, nhảy choi choi lên kêu,ba co bạn đăng kia nghe tiếng kêu vội chạy tới. Một cô nhón  chân vào dắt hai cô bạn đương lúng túng ra khỏi đám kiến rồi đưa xuống suối rửa chân. Nước mát làm nọc kiến dịu đi.

Hai cô nữa, mỗi người cầm một chiếc nón. Họ tức tốc chạy xuống vục nước suối lên đổ ào ào vào vùng tổ kiến. Những nón nước xối như  trời đổ xuống hàng nghìn cây nước khủng khiếp làm ngập lụt khắp thế gian. Thành quách, nhà cửa, của cải và dân cư, trong nháy mắt,  trôi vèo mất cả. Chỉ một lát, quang cảnh chỗ đánh nhau ban nãy đã đổi ra khoảng đất trơ trụi, lênh láng nước. Hàng nghìn hàng vạn  kiến bị trôi suối đương ngoi vẫy trong dòng nước.

Bây giờ là buổi chiều rồi. Các cô bé học trò đi kiếm củi và hái hoa về từ lâu. Ðối với các cô, không có gì đáng nghĩ, vì mỗi cô  đã làm đủ kết quả, vác về một bó củi với những cụm tầm xuân hoa phơn phớt hồng nhạt xinh. Nhưng ở vùng kiến hôm ấy thì phải nói rằng  trận bão lụt qua từ lâu rồi mà tất cả còn bàng hoàng.

Chập tối, trăng lên, trăng cuối mùa xuân, sáng trong và dịu dàng lạ lùng. Chúng tôi đứng nép trong bụi cỏ, dưới chân nước ướt nham  nháp. Lúc bị dội nước, nước chỉ ào qua bụi cỏ. Cũng may, nếu chúng tôi bị trúng những cây nước từ nón dội xuống chắc cũng trôi băng  ra suối rồi.

Trước mặt chúng tôi, một vùng im lặng ghê rợn. Chúng tôi suy nghĩ đến những khủng hoảng thiên nhiên đầy rẫy quanh mình. Bỗng đâu  Chuồn Chuồn bay đến trong ánh trăng. Ðấy là đàn Chuồn Chuồn Tương bay rất đông, cánh quệt cả vào bóng mặt trăng. Cánh nâu chấm  đen. Chuồn Chuồn Tương cũng yếu và không bao giờ bay đêm, tuy vậy, Chuồn Chuồn nhiều tình cảm nhất, khi nghe Trũi kể vầ cái khó  khăn nguy hiểm chúng tôi gặp phải dọc đường, Chuồn Chuồn Tương đã bay đi ngay, bay thong thả, nhưng bay luôn và suốt đêm không  nghỉ nên đến sớm nhất. Bọn Chuồn Chuồn Ngô, Chuồn Chuồn Chúa cậy sức khoẻ, họ cũng đi ngay đấy, nhưng còn nhởn nhơ đâu chưa tới. (  Có khi lạc đường cũng nên – các cậu láu táu nhanh nhảu đoảng mà! ).

Chuồn Chuồn Tương bay tới trong ánh trăng, bốn cánh rập rờn, nhịp nhàng, đương bay bỗng quẫy lại, rất nhanh và đẹp mát. Họ lượn đi  lượn lại mấy vòng trên ngọn cỏ ấu tìm chúng tôi.

– Chuồn Chuồn Tương đã tới! Hoan hô các bạn!

– Các anh ơi!

– Bạn ơi! Hãy bay khắp đồi, các bạn hãy gọi to lên xem Kiến Chúa ở đâu mau mua ra cho chúng mình hỏi chuyện.

Chuồn Chuồn Tương lại thong thả bay đi trong tưng làn ánh trăng chảy lênh láng trên mặt lá, sáng đẹp như ban ngày. Trăng sáng gây  cho lòng ta một cảm tưởng dịu dàng và yêu đời – dù đang trong cảnh đau khổ.

Lát sau Chuồn Chuồn Tương quay trở lại, nói to:

– Thấy Kiến Chúa rồi.

– Thế sao?

– Kiến Chúa hẹn sáng mai đi gặp.

– Ơ? đâu?

– Chúng em sẽ dẫn đường.

Sớm hôm sau, Chuồn Chuồn Tương đã rập rờn bay từ lúc còn tờ mờ. Các bạn trong bọn đã ủy cho tôi làm sứ giả tối quan trọng hôm đó.  Trên trời, Chuồn Chuồn Tương bay tầng trên tầng dưới, liệng cao liệng thấp, chao cánh vừa múa vừa bay như mừng như giỡn. Tiếng đồn  Chuồn Chuồn Tương hồn nhiên và yêu đời bấy lâu quả không sai!

Tôi ngắt một chiếc lá tre để che nắng và cũng để giơ cao lên đầu, tỏ dấu hoà bình; và tôi bước sâu vào làng xóm kiến.

Phải như mọi khi, có cầm mấy cái lá tre mang hình ảnh yên lành của lũy tre xanh ngõ xóm thì bọn kiến cục tính kia cũng có thể lăn  xả ra đả ngay. Nhưng sớm nay, đường ngang lối dọc cứ trống trơn. Trong cảnh trơ trọi ấy, thế mà đã lổm ngổm những anh kiến xây dựng –  Kiến Gió và Kiến Lửa, những tay thợ chăm chỉ và cần mẫn, có anh trôi suối bơi suốt đêm mới trở về được, mình còn ướt lướt thướt mà đã  ra đào lũy mới. Nhẫn nại và chăm việc quá. Mải miết cắm cúi làm, chẳng anh nào ngó ra. Sự gian khổ và chịu đựng còn in trên từng  cái bóng kiến lủi thủi, đều đều vác đất. Và trông vào trong các lỗ, kiến còn kéo ra đi dòng dài tưởng không bao giờ ngớt. Kiến có  thói quen đi một hàng, trước sau nghiêm ngặt. Sấm sét mưa gió khủng khiếp tưởng chết hết đêm qua, nhưng không phải, lúc nào kiến  cũng kỷ luật nghiêm.

Và bao giờ kiến cũng có hai thành trì để ở. Như đã biết lo xa. Một thành trên mặt đất và một ngầm dưới đất, có lỗ vào hang rất sâu.  Bây giờ, trên mặt đất bãi cỏ trống, hàng vạn kiến bị trôi xuống suối mới tìm về được và hàng vạn kiến trong các lỗ các hang bò ra  tấp nập và đắp thành lũy. Ðông đặc, nhưng khác mấy hôm trước, không ai hằm hè, không ai chú ý tới tôi. Tất cả lặng lẽ đều đặn tha  đất, nhỏ bọt đắp lũy.

Chuồn Chuồn Tương chỉ đường cho tôi vào thẳng tận nơi Kiến Chúa. Chỗ lù lù xao ấy là bức tường kiên cố còn sót lại sau trận lụt. Ðấy  cũng là dinh lũy Kiến Chúa. Tôi xưng tên rồi vào. Hai Kiến Càng dẫn tôi đi. Các hang lúc này đều vẫn xâm xấp nước.

Tôi thấy bùn lấm ngang khoeo chân Chúa Kiến.

Chúa Kiến cũng đương làm.

Bà Kiến Chúa tất tả khuân đất đắp lại bờ lũy cửa hang. Kiến Chúa lớn gấp đôi gấp ba Kiến Bọ Dọt, vẻ tháo vát và lanh lợi. Cái đầu đỏ  bóng như gỗ gụ, lấp ló trong chiếc khăn vuồn lụa nâu nhỏ. Chân dài và cao, nhanh nhẹn lắm. Dưới đuôi, đeo thanh kiếm nhọn sáng như  cây kim. Ðôi mắt lúc nào cũng long lanh rực rỡ đụng đậy nhô ra như hai mắt cua.

Trông thấy tôi, Kiến Chúa nói:

– Chúng tôi xưa nay chỉ biết làm ăn, sao các ông độc ác đến sinh sự rồi lại dội nước gây lụt lột đánh đuổi chúng tôi đi?

Tôi ngạc nhiên. Câu chuyện tai nọ sang tai kia cứ lạc đi như thế đấy. Bọn Kiến lầm lì đã gây sự thì có. Tôi bèn trình bày đầu đuôi  câu chuyện cho Kiến Chúa nghe, chúng tôi không gây sự, chúng tôi chỉ vụng về không biết hỏi han và để hiểu nhầm. Còn việc lụt lội  và việc của người ta, không nên tưởng chúng tôi xui mấy cô bé học trò làm ra mưa gió.

Rồi tôi nói:

– Chị đây lịch lãm, hiểu biết rộng rãi, rất mong thông cảm chúng tôi lặn lội khó nhọc, không quản đi sông về núi, chỉ vì chúng tôi  nghĩ đến những việc ích lợi ngoài tấm thân mình.

Nghe tôi nói xong, Kiến Chúa khóc mà rằng:

– Thưa anh, em đã lầm. Em chỉ nghe nói có kẻ cướp đến phá nhà. Mà anh biết, chúg em không bao giờ để ai bắt nạt. Dù là thằng cướp  hung dữ nhất có đi qua tổ kiến thì kiến vẫn đốt cho rất đau và đánh đuổi đi như thường. Thế ra không phải các anh đến phá tổ kiến.  Chao ôi, việc làm của các anh to lớn khắp thế gian, quý báu thay! Sức chúng em giúp rập được bao nhiêu, xin chẳng từ nan.

Tôi cười, sung sướng và cảm động:

– Các bạn kiến sẽ làm được tất cả, làm được rất nhiều, thế nào chúng ta cũng thành công.

Tôi kể Kiến Chúa nghe những nơi mà Châu Chấu Voi đã đi qua và mục đích chúng tôi đến đất Kiến. Kiến Chúa gật đầu khâm phục và có  vẻ nghĩ ngợi khi hình dung ra cái việc quan trọng mà họ sắp ghé vai gánh vác.

Ngay lúc ấy, Kiến Chúa cho mời cả Trũi, cả Xiến Tóc và các bạn Châu Chấu voi vào.

Cũng ngay lúc ấy, câu chuyện quan trọng đã lọt ra. Các bạn Kiến nhanh thế, cả các làng mạng, hang ổ, thành luỹ và ở những nơi đương  xây dựng đều đã biết đầy đủ câu chuyện mà Kiến Chúa đương bàn bạc với chúng tôi. Ðâu đâu cũng bàn tán sôi nổi, tan hẳn vẻ buồn u  ám như lúc tai hoạ hôm qua.

Chúng tôi còn đương trò chuyện, các bạn kiến ở các hang kéo đến mỗi lúc một nhiều, bỗng nghe ầm ầm bốn phiá chân trời. Thì ra cứu  viện của chúng tôi do Trũi nhờ các tay Chuồn Chuồn giang hồ bay đi gọi, đã tới.

Rợp trời các loại phi cơ Chuồn Chuồn. Ðầy mặt đất những Châu Chấu, Bọ Ngựa, Bọ Muỗm. Và cả cái xóm lầy lội những Rắn Mòng, Ễnh ương,  Nhái Bén, Cóc, Ếch…Ếch ồm ộp, Cóc kèng kẹc, Chẫu Chàng chằng chuộc. Ễnh ương uôm oạp. Bọn có càng thì khua càng gõ mõ. ầm cả lên.  Chưa hết. Trong lòng suối dưới chân đồi, các loài Cá và chú Rắn Mòng cũng đông đủ đi giúp chúng tôi. Ðàn Săn Sắt múa đuôi cờ lên  tung toé mặt nước. Những anh Cua Núi mắt lồi đen kịt như cái tàu bò, lịch kịch lên bờ, đi tìm cứu chúng tôi.

Khi các bạn tới, đã thấy trên mặt đất không phải là cảnh xô xát nữa mà cả làng Kiến kéo ra chào hỏi niềm nở lễ phép. Một quang cảnh  chan hoà thân ái diễn ra khắp vùng đồi đương mùa hoa tầm xuân, đến gió thổi cũng đỏ hồng cả không khí.





Tôi nói ra mấy câu kể lại rồi đọc lời hịch mà chúng tôi vừa thảo ra để cổ động thế giới đại đồng “muôn loài cùng nhau kết anh em”  thì họ reo ầm ầm, tất cả lại đâu kéo về đấy, vừa đi vừa nhảy múa vui chơi.

Chúng tôi giã từ đất Kiến.

Cảm động quá, đi mấy ngày, lại mấy ngày, rồi đi nhiều ngày nữa cũng thấy đâu đâu bàn tán công việc các loài bây giờ đã thành anh  em. Kiến thông tin tới tấp đi khắp hang cùng ngõ hẻm. Kiến truyền tin! Kiến tryền tin! Trên thế giới không chỗ nào không có Kiến –  đâu có khí trời thì đấy có kiến ở, kiến đến đâu thì ở đấy biết tin vui lớn.

Chẳng bao lâu, cả mọi loài, từ rừng xuống biển, đều gửi thư nhắn tin về hoan ngênh và hưởng ứng. Tất cả những nơi tôi đã đi qua, đều  hoan hô hết cỡ. Cả cô Nhà Trò yếu đuối, các nàng Bướm và Ve Sầu lười biếng trước kia cũng có thư.

Tiếng vang cuồn cuộn khắp trời đất! Thôi thế đã xong phần công việc quan trọng. Tôi nhẹ nhõm thở một hơi rõ dài. Mấy anh Kiến Kim  ngượng và thẹn vì đã hấp tấp choảng chúng tôi để sinh chuyện xích mích cuối cùng – vâng, câu chuyện xích mích cuối cùng đáng  tiếc. Từ đấy, các cậu Kiến Kim xấu hổ cứ lang thang kiếm ăn vơ vẩn ngoài đồng, không muốn giáp mặt ai nữa.

--------------

Các bạn đồng tâm đã dời đi mỗi đứa một ngả. Nhưng ai đi đâu cũng không còn cảm tưởng lẻ loi và chỉ thấy rất vui, rất đầm ấm vì đi  đâu bây giờ cũng có bạn. Chúng tôi vừa làm được một việc to tát quá.

Tôi và Trũi trở lại quê hương định nghỉ ngơi ít ngày và tôi có ý muốn đưa mẹ tôi đi chơi đây đó giối già một phen.

Trên đường về, tới đâu, tôi và Trũi cũng được đón mời. Ông Ếch Cốm cùng cả xóm ra tận đầu đường tiếp rước. Ðám cá ngoài quãng sông  cũng bơi vào xin lỗi về việc cũ. Tôi thưa rằng nói về chuyện cũ thì ngày ấy chúng tôi cũng mang lỗi chẳng khác gì các bạn. Chỉ có  hôm nay chúng ta đều khác trước rồi.

Ơ? đâu cũng tưng bừng rộn rịch.

Về tới quê hương, cảnh vật có đổi khác ít nhiều. Bao nhiêu năm xa cách! Vì câu chuyện của chúng tôi đã được các nhà truyền tin  kiến đem đến từ lâu nên nghe biết tôi và Trũi trở về, cả vùng bờ nước đi đón.

Anh cả tôi sướng cuồng lên, vì đã có ông em rất quý ( chứ không phải bất hiếu bất mục ) như tôi. Ông kể với bốn bên hàng xóm rằng  mùa xuân tới ông cũng đi du lịch và phiêu lưu như “chú Mèn nó” cho mà xem! Cho mà xem.

Ông anh hai ốm yếu thì mất từ lâu.

Nhưng buồn nhất, mẹ tôi cũng đã khuất núi.

Tôi ra viếng mộ người bên đầm nước. Nhớ đến lời người, khi sinh thời. Mẹ ơi! Lá vàng, thì lá rụng, sự xoay vần tự nhiên, muôn loài  chưa ai cưỡng lại được, con vì thế mà buồn, nhưng con vẫn ân hận rằng lần này trở về không còn được quỳ ôm đôi càng gầy yếu của mẹ  kính mến mà kể lại những ngày luân lạc và những công việc con đã làm ích lợi cho đời để mẹ nghe.

Sau đó, tôi nghỉ lại quê nhà ít lâu. Lòng thư thái, nằm duỗi chân nhìn lên qua khe cỏ ấu, thấy mảnh trời xanh biếc như ước vọng đời  mình đương bay xa. Rồi tôi bàn với Trũi một cuộc đi mới.

Ngày nào, cuộc đi mới ấy, cuộc phiêu lưu rời quê hương lần thứ ba ấy xong, bấy giờ, chúng tôi mới thực sự được la đà theo bước chân  mình. Ðó sẽ là cuộc phiêu lưu hoà bình, chúng tôi sẽ để hết thì giờ xem xét phong tục, nghiên cứu văn hoá và thổ ngơi từng vùng.  Chúng tôi có thể thành nhà khảo cổ, nhà địa lý, nhà kinh tế, nhà thơ nổi tiếng cũng nên.

Trong những ngày còn lưu ở quê hương, tôi chép lại cuộc sống trôi nổi vừa qua. Giờ đương mùa thu. Mùa thu, hoa cúc vàng nở lưng  giậu. Lối mòn đầy lá đỏ rơi. Từ hôm vào mùa mới, đất trời u ám mưa phùn. Cảnh buồn mà lòng vui.

Thưa bạn đọc yêu quý. Mèn tôi xin phép chấm hết một phần thiên ký sự. Ước ao trong cuộc đi vô cùng hào hứng đương tới, chúng ta  còn được gặp nhau.

12-1941 – Nghĩa Ðô

Tô Hoài 

https://sachvui.com/doc-sach/de-men-phieu-luu-ky/chuong-10.html




Gigi Young - Create peace within the heart and body from a pure place. There is a tendency to attempt create peaceful emotions in spite of something or someone.

This is a natural attempt to create balance and emotional relief. However, keep in mind if we create anything in the wake of spite, even positive thoughts and emotions, it will be rooted and resonating in spite. Create peace and love within the heart, from scratch. Just because you can.

We are energetic beings that work through resonance, and that often means letting go and introducing raw higher frequencies (via emotion and thoughts) that alchemically override negative ones over time.




I imagined the bounty of food that’s put before Penelope three times a day – and which, like more preschoolers, she routinely picks at with casual disinterest.  “How did you manage to eat?” I asked Stephanie.

“Actually, food was plentiful in the country, except in the winter,” she said.  “I could steal whatever I wanted.  There were fruit fields, vegetable fields, and rice fields.  As long as I didn’t get caught, I could eat.

“I remember following a group of homeless children.  At night they would crawl on their bellies into the fields and get some of what we called sweet melons.  I thought, I could do that.  So there was a season where every night I would wait for the watchman of the field to fall asleep, and I would crawl on my belly and get what I wanted.

“Plus, the rice fields were full of grasshoppers and locusts.  I would catch them and poke a rice straw through their head until I had a whole string of them, which I’d tie to my belt.  By the end of the day they were pretty much dried and I’d eat them.  And I killed field mice.  They would come out of the same hole at the same time every day.  I learned to be really, really patient.  When they stuck out their head, I would grab them quicker than they could go back down the hole.  I pretty much ate everything – the skin, the ears, the tail.”

I asked, “What about the winters?  They must have been unbearable for you.”

“Yes, they were very cold, and I had nowhere to go and no food.  Really, I should have died that first winter.  I don’t know how I survived, except I remember I found a foxhole to live in.  I gathered whatever straw I could find from the rice fields and brought it in to make a little den.  I’d go down to the village when everybody was sleeping and steal what I could from the villagers.

“In Third World countries, street children grow up really fast.  I learned to adapt quickly.  In my wanderings, everything was a treasure.  A tin can thrown by a soldier from a truck became my drinking can and boiling pot.  We would find nails and put them on the railroad tracks to be run over and flattened – they became utensils.  I would use one to gut the mice I would catch.”

“Did the villagers know you were there?”

“Oh, yes.  Every once in a while a kind woman would leave her kitchen door open for me, and I would curl up on the dirt floor by the stove and stay warm.  Those were answers to prayers, because in my dens I would be shivering all night.”

“You mentioned earlier that you were taunted.”

“It was constant.  The children taunted me because I was biracial, and the farmers would yell at me because I was stealing from them.  To everyone, I was a dirty toogee.  And when you’re a little child and hear people call you that day after day, you begin to believe it about yourself.  I believed anyone could do whatever they wanted to me physically because I wasn’t a person.  I was worthless.  I was dirty.  I was unclean.  I had no name.  I had no identity.  I had no family.  I had no future and no hope.  Over time, I began to hate myself.

“There were times when I would follow a group of homeless children.  Sometimes they would let me mingle with them, and other times they would do bad things to me, you just never knew.  So I became hypervigilant.  Very cautious.  And yet the child in me would always want to be with people.  I was always looking for someone to say, ‘Oh, be my friend.  You can belong to us.’”

“What was it like for you emotionally?”

“I was in survival mode.  I did cry when I was abused, I did beg for mercy, I would get angry, I would kick and scream, I learned cuss words really quickly.  The first few days or weeks, I cried for my mommy.  I was always trying to find my way back to her.  Maybe she would be over the next hill; maybe she would be around the next corner.  If I saw a village from the distance I would think, Oh, that’s my village, and I would run into it.

“But it was never my village.” 


https://thevalueofsparrows.com/2019/02/21/grace-locusts-and-field-mice-by-lee-strobel/


 


I had been planning on writing a post on homemade rice milk at some point, but after reading an article last week in Mother Jones about this latest non-food food additive, I decided I better whip up a batch of rice milk and write a post about it sooner rather than later.

According to the writer (and the scientific sources he cites), nano-size particles (a nanometer is a billionth of a meter) of titanium-dioxide now lurk in, among other products, Dannon Greek Plain Yogurt, Silk Original Soy Milk, Rice Dream Rice Drink, Hershey’s Bliss Dark Chocolate and Kraft’s American Cheese-Like Singles. Why? Because nanoparticles of titanium dioxide whiten white foods like yogurt and rice milk and brighten dark foods like chocolate.

How do nanoparticles affect the body? Well, we don’t know. The FDA says they pose a risk—but has done nothing to curb this trend. Ninety-six food items in the United States now contain unlabeled nano ingredients but as “recently as 2008, only eight US food products were known to contain nanoparticles, according to a recent analysis from Friends of the Earth—a more than tenfold increase in just six years.”

I don’t buy rice milk because of the overpackaging. I’ve seen it only in Tetra Paks, which aren’t recyclable (at least not where I live), and recycling is a last resort anyway. I prefer to refuse packaging, buy whole foods and cook for myself. Rice milk happens to be pretty easy to make.

Ingredients

1 cup brown or white rice, long or short grain (I buy mine in bulk in my own container and I chose brown rice for this post)
4 cups water (plus more for soaking the rice)
Sweetener (optional)
Vanilla (optional)

Instructions

1. Rinse rice thoroughly and place in a bowl. Cover with water by about half an inch. Let soak overnight. This batch soaked for about 14 hours. One of the nice things about this recipe is you don’t use any energy to cook the rice before making the milk. If you prefer almond milk, just replace the cup of rice with a cup of raw almonds, and follow these same directions.

2. After the rice has soaked, drain but do not rinse it. Place rice in a blender along with the 4 cups of water. If you want to add sweetener, vanilla or other flavorings, do it now. Unlike homemade almond milk, I think rice milk really needs just a bit of sweetener to taste (try a teaspoon of honey). You can add the flavorings after you blend everything and strain the liquid, but then you’ll have to clean the blender out and pour everything back in. It’s just easier to add it now. (I opt for easy.)

3. Whirl the rice and water around in the blender on high for about 3 minutes.

4. Place a sieve lined with a very thin towel over a bowl. Pour the rice milk into it. Allow the liquid to strain and drip into the bowl below. My thinning, old tea towel is still a bit thick, but it did the trick.

5. Gather the corners of the towel up and squeeze out the remaining liquid.

6. Pour rice milk into jars, replace lids and chill. Drink your rice milk within a week. (I tend to avoid eating food more than a week old unless it’s fermented.)

If you have any ideas for what to do with this rice sludge, please let me know. I put mine in the fridge, where I imagine it will sit for several days until I finally compost it. I’ve baked with almond or coconut pulp left from making milk, but not rice.

No-Cook Rice Milk

Yields approximately 3 1/2 cups

Ingredients

1 cup brown or white rice, long or short grain
4 cups water (plus more for soaking)
1 teaspoon honey or sugar (optional)
1/4 teaspoon vanilla (optional)

Directions

1. Rinse rice thoroughly and place in a bowl. Cover with water by about half an inch. Let soak overnight.

2. After the rice has soaked, drain but do not rinse it. Place rice in a blender along with the 4 cups of water. Add sweetener and vanilla, if desired.

3. Whirl the rice and water around in the blender on high for about 3 minutes.

4. Place a sieve lined with a very thin towel over a bowl. Pour the rice milk into it. Allow the liquid to strain and drip into the bowl below.

5. Gather the corners of the towel up and squeeze out the remaining liquid.

6. Pour rice milk into jars, replace lids and chill. Drink your rice milk within a week. 


https://zerowastechef-com.cdn.ampproject.org/v/s/zerowastechef.com/2014/06/04/no-cook-rice-milk/amp/?amp_js_v=0.1&usqp=mq331AQEKAFwAQ%3D%3D#origin=https%3A%2F%2Fwww.google.com&prerenderSize=1&visibilityState=prerender&paddingTop=32&p2r=0&horizontalScrolling=0&csi=1&aoh=15684005587626&viewerUrl=https%3A%2F%2Fwww.google.com%2Famp%2Fs%2Fzerowastechef.com%2F2014%2F06%2F04%2Fno-cook-rice-milk%2Famp%2F&history=1&storage=1&cid=1&cap=navigateTo%2Ccid%2CfullReplaceHistory%2Cfragment%2CreplaceUrl




The siege of Masada was one of the final events in the First Jewish–Roman War, occurring from 73 to 74 CE on and around a large hilltop in current-day Israel.

The siege was chronicled by Flavius Josephus, a Jewish rebel leader captured by the Romans, in whose service he became a historian. According to Josephus the long siege by the troops of the Roman Empire led to the mass suicide of the Sicarii rebels and resident Jewish families of the Masada fortress, although this is not supported by archaeological investigation.

The siege has become controversial, with some Jews regarding Masada as a place of reverence, commemorating ancestors who fell heroically against oppression, and others regarding it as a testament to extremism and a refusal to compromise.

Masada has been described as "a lozenge-shaped table-mountain" that is "lofty, isolated, and to all appearance impregnable".[3] Historically, the fortress could be reached only by a single pathway that was too narrow for men to walk abreast. This pathway was named "the Snake" for the way it twists and zig-zags to the summit.[3] Masada was named as the place where David rested after fleeing from his father-in-law, King Saul.

Flavius Josephus, a Jew born and raised in Jerusalem, is the only historian to provide a detailed account of the First Jewish–Roman War and the only person who recorded what happened on Masada. After being captured during the Siege of Yodfat and then freed by Vespasian, Josephus chronicled the Roman campaign.[5] Josephus presumably based his narration on the field commentaries of the Roman commanders.

According to Josephus, Masada was first constructed by the Hasmoneans. Between 37 and 31 BCE Herod the Great fortified it as a refuge for himself in the event of a revolt. In 66 CE, at the beginning of the First Jewish–Roman War, a group of Jewish extremists called the Sicarii overcame the Roman garrison of Masada and settled there. The Sicarii were commanded by Eleazar ben Ya'ir,[3] and in 70 CE they were joined by additional Sicarii and their families expelled from Jerusalem by the Jewish population with whom the Sicarii were in conflict.

Shortly thereafter, following the Roman siege of Jerusalem and subsequent destruction of the Second Temple, additional members of the Sicarii and many Jewish families fled Jerusalem and settled on the mountaintop, with the Sicarii using it as a refuge and base for raiding the surrounding countryside.

 According to modern interpretations of Josephus, the Sicarii were an extremist splinter group of the Zealots and were equally antagonistic to both Romans and other Jewish groups.[9] It was the Zealots, in contrast to the Sicarii, who carried the main burden of the rebellion, which opposed Roman rule of Judea.

Archaeology indicates that the Sicarii modified some of the structures they found there; these include a building that was modified to function as a synagogue facing Jerusalem (it may in fact have been a synagogue to begin with), although it did not contain a mikvah or the benches found in other early synagogues. It is one of the oldest synagogues in Israel. Remains of two mikvaot were found elsewhere on Masada.

In 72 CE, the Roman governor of Iudaea, Lucius Flavius Silva, led Roman legion X Fretensis, a number of auxiliary units and Jewish prisoners of war, totaling some 15,000 men and women (of whom an estimated 8,000 to 9,000 were fighting men[14]) to lay siege to the 960 people in Masada.

The Roman legion surrounded Masada and built a circumvallation wall, before commencing construction of a siege ramp against the western face of the plateau, moving thousands of tons of stones and beaten earth to do so. Josephus does not record any attempts by the Sicarii to counterattack the besiegers during this process, a significant difference from his accounts of other sieges of the revolt.

The ramp was completed in the spring of 73, after probably two to three months of siege. A giant siege tower with a battering ram was constructed and moved laboriously up the completed ramp, while the Romans assaulted the wall, discharging "a volley of blazing torches against ... a wall of timber",[3] allowing the Romans to finally breach the wall of the fortress on April 16, 73 CE.

When the Romans entered the fortress, however, they found it to be "a citadel of death." The Jewish rebels had set all the buildings but the food storerooms ablaze and had killed each other, declaring "a glorious death ... preferable to a life of infamy."

According to Josephus, "The Jews hoped that all of their nation beyond the Euphrates would join together with them to raise an insurrection," but in the end there were only 960 Jewish Zealots who fought the Roman army at Masada.

When these Zealots were trapped on top of Masada with nowhere to run, Josephus tells us that the Zealots believed "it [was] by the will of God, and by necessity, that [they] are to die."[5] According to William Whiston, translator of Josephus,[5] two women, who survived the suicide by hiding inside a cistern along with five children, repeated Eleazar ben Ya'ir's exhortations to his followers, prior to the mass suicide, verbatim to the Romans:

Since we long ago resolved never to be servants to the Romans, nor to any other than to God Himself, Who alone is the true and just Lord of mankind, the time is now come that obliges us to make that resolution true in practice ... We were the very first that revolted, and we are the last to fight against them; and I cannot but esteem it as a favor that God has granted us, that it is still in our power to die bravely, and in a state of freedom. — ?Elazar ben Yair

As Judaism prohibits suicide, Josephus reported that the defenders had drawn lots and killed each other in turn, down to the last man, who would be the only one to actually take his own life. Josephus says that Eleazar ordered his men to destroy everything except the foodstuffs to show that the defenders retained the ability to live, and so had chosen death over slavery.

However, archaeological excavations have shown that storerooms which contained their provisions were also burnt, though whether this was by Romans, by Jews, or natural fire spreading is unclear.

According to Shaye Cohen, archaeology shows that Josephus' account is "incomplete and inaccurate".

Josephus only writes of one palace, archaeology reveals two, his description of the northern palace contains several inaccuracies, and he gives exaggerated figures for the height of the walls and towers. Josephus' account is contradicted by the "skeletons in the cave, and the numerous separate fires".

According to Kenneth Atkinson, there is no "archaeological evidence that Masada's defenders committed mass suicide."

The siege of Masada is often revered in modern Israel as "a symbol of Jewish heroism".[21] According to Klara Palotai, "Masada became a symbol for a heroic 'last stand' for the State of Israel and played a major role for Israel in forging national identity".

To Israel, it symbolized the courage of the warriors of Masada, the strength they showed when they were able to keep hold of Masada for almost three years, and their choice of death over slavery in their struggle against an aggressive empire. Masada had become "the performance space of national heritage", the site of military ceremonies.[22] Palotai states how Masada "developed a special 'love affair' with archeology" because the site had drawn people from all around the world to help locate the remnants of the fortress and the battle that occurred there.


https://en.m.wikipedia.org/wiki/Siege_of_Masada


 

“The merkaba is perhaps one of the most accurate representations humanity has of divine energy. It spins, it flows, it grows in all directions at all times. It balances and harmonizes, and takes you where you want to be, into the life you are wanting. It does this both in the physical and the spiritual dimensions: yes, you can actually travel with the merkaba. Or you can use it to become who you want to be. The merkaba is the infinite circulating flow of the divine trinity and the four directions, the four elements. It is all, all at once.” ~ Eden




A merkaba is a star tetrahedron, a three dimensional 8 pointed star made from two triangular pyramids, one pointing up and the other down. It harmonizes male and female energy, much like a Yin/Yang symbol. The star of David is a two dimensional version of a merkaba, and was reputed to have been painted on the shields of the armies of King David as a symbol of divine protection. The merkaba does, in fact, step down source energy into the physical and is a representational invocation of “as above, so below”. The pyramid pointing upwards connects us to heavenly universal energy and represents yang, positive energy flows. The pyramid pointing downward connects to the earth and resonates with yin, negative energy flows.




The merkaba is emblematic of the greater energy field that surrounds our body beyond our field auric field. Most people who can view auras see them as a diffuse egg-shaped color field around our body that changes colors and ranges in size from 6-36 inches. Beyond our Aura we have the etheric field, and further out we have an immense energy field, reputed to grow up to 55 feet across and saucer-shapped when it is fully energized: our Merkaba, our light body. A properly functioning Merkaba field is not static, but comprised of the two tetrahedrons spinning incredibly fast in opposite directions, creating a light body that is capable of great feats, including interdimensional and interstellar travel.




Merkabas are believed to be the same divine light vehicle used by ascended masters to connect with and reach those in tune with the higher realms. It is thought by many that the “chariots of fire” mentioned in the bible are these same vehicles. Mer-Ka-Ba literally means light-spirit-body in Hebrew, denoting the harmonious activation of the three fields. When your Merkaba is active you are tapped in to all Source energy and locked into the Earth’s living matrix. Your DNA is fully turned on and the potentional for immortality and time travel are there. Your soul excels. Your body heals itself and you have the potential for limitless creation.




Your merkaba is in constant communication and connection with all of Source. It is your creative matrix that allows you to combine your soul intention with the spark of god-energy and literally create your reality however you want. Like a crystal, it can be programmed through meditation and by setting your intention. All that is required is for your merkaba to be actively spinning, which is done through breathing exercises and habit, and by simply instructing your merkaba as to what you want it to do. You are the only one on earth who can work with or program your merkaba. No other human or healer may influence the programming of your merkaba, although a healer may work on your breathwork and energy patterning to help facilitate merkaba activation.




Most people choose to pattern their merkabas in one of two ways: active or reactive. Active programming is very yang in energy, task specific, detailed and proactive: if there is negative energy in a room emanating from a person or geopathic stress, you can program your merkaba to deflect it. If you are wanting a specific job, your merkaba can reach into the energy matrix of the Earth and help conspire to create this specific reality. Reactive, female patterning is more reactive and open than the active patterning, it tends to use overarching instructions such as “I program my merkaba to flow with ease in this physical earth reality and to see that all my needs and desires are fulfilled for the highest good of all involved.” There is less judgment of specific situations and more acceptance and anticipation of the synchronicity. Neutral programming is the way of the Tao, neither reactive nor proactive, it simply is. Situations come and go with equal lack of prejudice or preference. This sort of programming is common in those pursuing a monastic life.




A Meditation with Your Merkaba:

Sit or lie down, close your eyes and settle your mind.

First let us see the tetrahedrons surrounding your body: the male pyramid points upwards and begins at your knees, extending several feet above your head. The female pyramid extends downwards from your shoulders and reaches several feet below your own feet. Are your pyramids spinning? Let us activate them now so that each pyramid spins in a different direction – the male pyramid spins from left to right around your body, and the female pyramid spins from right to left around your body. Together, they energize your meridians more fully. As they spin, see them create a light field around your body, growing larger and larger in a saucer like shape expanded by the centrifugal force of the merkaba.

Breathe in, and out, in and out, a circular pattern that further fuels your merkaba.
Now think about abou how you, personally, would like to pattern your merkaba. How will you put your personal computer to work for you? Take some time to focus your attention on the matter, and set your intention with your merkaba now.

Know that whatever you have intended, your merkaba is now working on it completely, without deviation of failure.

As you have willed it, so shall it be.

Now slowly take your focus off your merkaba, and return to your aura, see the healthy glow all around you, your chakras in tune, your cells turned on to their full potential. You are energized and you are well.

Return now, into your body, into this room, and be ready for LIFE!


http://edenisnow.com/what-is-your-merkaba-and-how-do-you-activate-it/

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.